Omarsa sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm Ecuador, tăng gấp đôi về sản lượng tôm hữu cơ trong hơn 2 năm qua, và hiện tại nhu cầu đang tăng cao, Jose Torres, Giám đốc kĩ thuật Omarsa chia sẻ với IntraFish.
Dạo vòng quanh công ty ở ngoại ô Guayaquil, Ecuador để tham quan hoạt động, Torres cho biết, công ty đã tăng gấp đôi sản lượng tôm hữu cơ trong 2 năm qua từ khoảng 2.5 triệu pound vào năm 2013 lên tới con số dự đoán là 5.5 triệu pound vào năm 2015.
"Chúng tôi đã không gia tăng diện tích nuôi, nhưng không hẳn là không cải tiến kỹ thuật sản xuất, tỷ lệ sống, kích cỡ trung bình và gia tăng sinh khối", Torres cho biết. "Chúng tôi đã tăng mật độ nuôi từ 7 con/m2 đến 9 con/m2 cho đến hiện tại và tỷ lệ sống trung bình dao động từ 40 đến 65%”.
Trong hơn 2 năm, tôm tăng trưởng với kích cỡ trung bình dao động từ 14 đến 19 gram. “Chúng tôi vẫn đang phát triển lên kích cỡ tối ưu nếu chúng tôi cho là cần thiết”.
Để được xếp vào nhóm hữu cơ, cần có những giới hạn về số lượng tôm được nuôi trên 1ha. Phân loại trang trại tôm hữu cơ thì yêu cầu tối đa là 15 con/m2, tương đương 4.500 pound/ha.
Nhưng, công ty Omarsa chỉ cho phép nuôi với mật độ 9 con/m2, tương đương 2.200 pound/ha và sẽ mở rộng khi nhu cầu tăng.
Tuy nhiên, phía công ty không có kế hoạch mở rộng hoạt động nuôi tôm hữu cơ bởi nhu cầu về thị trường kém. “Điều này đồng nghĩa với nhu cầu tôm hữu cơ không nhiều ngay thời điểm này”.
“Sản lượng ổn định như là minh chứng về nhu cầu về tôm hữu cơ, nhưng vẫn gia tăng sản xuất khi nhu cầu tăng”.
Trang trại của công ty có tổng cộng 3.000 ha được chia thành 3 khu. Trang trại tôm hữu cơ của công ty chiếm diện tích lớn nhất là ở Ecuador với 900 ha, 2 trang trại khác có diện tích tương ứng là 1.200 ha và 900 ha.
Trong năm 2015, Omarsa dự báo sẽ sản xuất với tổng cộng 20 triệu pound tôm. Trong đó, 5.5 triệu pound là tôm hữu cơ.
"Toàn bộ quá trình đều được chứng nhận hữu cơ", Torres chia sẻ. "Từ ấu trùng, cá thể bố mẹ cho đến thức ăn nuôi tôm. Chúng tôi không sử dụng bất kỳ kháng sinh và hóa chất nào”.
Ước về khối lượng, Omarsa là nước sản xuất tôm hữu cơ lớn nhất ở Ecuador với các thị trường chính như Đức, Anh và Pháp.
Công ty được chứng nhận hữu cơ bởi Naturland ở Đức và vào thời điểm tháng 10 năm ngoái đã trở thành công ty đầu tiên trên thế giới đạt chứng nhận ASC về trách nhiệm xã hội, cải thiện môi trường và thực hành nuôi tốt.
Omarsa là một trong những nước sản xuất lớn của Ecuador được tích hợp theo chiều dọc, bộ xử lý và xuất khẩu tôm, đem về doanh thu 250 triệu đô (227.3 triệu bảng) trong năm 2014.
Hoạt động của công ty bao gồm 3 trại giống, 3 trại nuôi tôm và 1 nhà máy chế biến; 100% sản phẩm của công ty chủ yếu xuất khẩu sang Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ và Canada, cũng như Nam Mỹ và châu Á.
Kế hoạch để mở rộng trang trại nuôi tôm thông thường nhưng không phải dành cho hoạt động kinh doanh tôm hữu cơ của công ty, Torres nói thêm.
"Người tiêu dùng tôm hữu cơ khác xa người tiêu dùng trung bình - họ nhận biết về sự khác biệt và sẵn sàng trả phí cao hơn. Tôm hữu cơ vẫn đang là một thị trường nhỏ nhưng chúng tôi hy vọng thị trường sẽ phát triển”.
Vào 2 năm trước, một số ít các nhà sản xuất làm ra sản phẩm tôm sinh thái ở Ecuador nhưng nhu cầu về thị trường ngang nhau nên người nuôi bắt đầu nuôi theo cách truyền thống.
"Omarsa vẫn trụ lại, nhưng không có kế hoạch gia tăng sản lượng khi nhu cầu được bảo hiểm", Torres nói thêm.
"Đó là về hương vị, kết cấu và tôm hoàn toàn khỏe mạnh, không sử dụng hóa chất trong quá trình nuôi. Nếu Mỹ có một tiêu chuẩn hữu cơ sẽ tạo ra nhu cầu nhiều hơn".
Với tôm hữu cơ, Omarsa có khả năng tăng giá trị khoảng 0.25 đô (0.23 bảng) mỗi pound hoặc 0.50 đô (0.45 bảng) cho mỗi kg hơn tôm thông thường.
Sandro Coglitore - Giám đốc điều hành của công ty trao đổi với IntraFish, tăng trưởng nhu cầu hữu cơ sẽ dựa vào những gì đang xảy ra ở Hoa Kỳ.
"Chúng tôi sẽ phải xem Hoa Kỳ giới thiệu một tiêu chuẩn hữu cơ - nhiều nhà bán lẻ không thể gắn nhãn sản phẩm là hữu cơ khi không có tiêu chuẩn USDA".
Ngay lúc này, trọng tâm chính của Omarsa là dẫn đầu về tôm và là ngành có lợi nhuận cao nhất tại thời điểm này.
"Chúng tôi cũng đang có kế hoạch để phát triển thêm giá trị kinh doanh (VAP) của chúng tôi trong vòng 2 đến 3 năm tới", Coglitore chia sẻ.
Tại thời điểm này, VAP chiếm 20% tổng sản lượng Omarsa nhưng vẫn được hy vọng sẽ tăng 10% trong vòng 2 đến 3 năm tới.
Do yêu cầu dẫn đầu toàn bộ sản phẩm ở châu Á, cũng như giá các sản phẩm tăng cao, Coglitore cho biết công ty sẽ giảm sản lượng qua các năm cũng như tiêu chuẩn về sản lượng tôm nuôi.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu Omarsa, có khoảng 35% được sản xuất từ trang trại của của công ty và có 65% được thu mua từ người nuôi.
"Chúng tôi muốn mua nhiều hơn từ người nuôi, và để làm điều đó, chúng tôi sẽ gia tăng sức mua của chúng tôi bằng cách bán nhiều hơn đến châu Á để nhận được giá tốt hơn", Coglitore tiếp lời.
"Châu Á và Trung Quốc là thị trường lớn nhất của chúng tôi tại thời điểm này, khi họ đưa ra giá cao nhất và đó là nhu cầu thiết yếu”.
Những thách thức luôn phải đối mặt với các ngành công nghiệp, đặc biệt là các mối đe dọa về giá thấp và dịch bệnh tiềm tàng. "Tại thời điểm này giá đang ổn định và chúng tôi có một cái nhìn rất tốt", Coglitore phấn khởi.
"Tôi kỳ vọng sẽ kịp với nhu cầu mùa Giáng sinh và năm mới, nhu cầu và thời gian sản xuất cho Trung Quốc là rất gần nhau cho cả hai sự kiện này”.
Omarsa hy vọng sẽ sản xuất khoảng 32.000 tấn tôm trong năm 2015, trong đó 11.000 tấn tương đương 35%, sẽ đến từ các trang trại riêng của công ty, Coglitore nói thêm.
Linh hoạt về thị trường, Coglitore cho biết, bước tiếp theo sẽ là tăng trưởng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.
"Chúng ta phải phá vỡ rào cản nhiều hơn ở thị trường Trung Quốc, phân khúc phân phối khổng lồ ở Trung Quốc chờ đợi để được xem xét, thông qua các dịch vụ ăn uống, khách sạn, nhà hàng...”.
Trong năm 2014, doanh thu của Omarsa là 250 triệu đô (227.3 triệu bảng), Coglitore chia sẻ. Năm 2015, ông hy vọng doanh thu sẽ tương đương dù có sự sụt giảm về giá.
"Không gian luôn rộng mở cho tôm sang Trung Quốc và tôi cho rằng giá sẽ tăng". "Chúng tôi đang hướng đến để có được giá tốt nhất, vì vậy chúng tôi sẽ có nhiều khả năng mua và trả giá cao hơn cho người nuôi”.