Câu chuyện hàng thủy sản nhiễm chất kháng sinh không phải là vấn đề mới phát sinh, mà hầu như năm nào cũng có nhiều lô hàng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài đều bị phát hiện và trả về. Điều đáng nói là thực trạng này đang có chiều hướng gia tăng, không thể kiểm soát.
Vòng luẩn quẩn
Ông Phạm Văn Đông, Cục trưởng Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, trong 9 tháng đầu năm 2015 có 582 lô hàng thủy sản bị 38 nước trả về, tương đương với 32.000 tấn (con số này của cả năm 2014 là trên 24.000 tấn). Tính trung bình, mỗi công ty có 5 lô hàng bị trả về, cá biệt có công ty có tới 54 – 70 lô hàng bị trả về. Hầu hết những lô hàng này đều bị dính lỗi tồn dư kháng sinh. Theo Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản (Nafiqad), xuất khẩu thủy sản sang ba thị trường lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, Nhật và EU đều có những lô hàng bị cảnh báo. Cụ thể, trong 9 tháng đầu năm 2015, Nhật cảnh báo 27 lô hàng thủy sản Việt Nam nhiễm hóa chất kháng sinh, tăng so với cùng kỳ là 21 lô hàng. Số lô hàng bị cảnh báo tại EU tương đương với Nhật là 27 lô và Hoa Kỳ là 35 lô hàng, tăng 6 lần so với cả năm 2014 chỉ có 6 lô.
Đa số các lô hàng bị trả về hay cảnh báo đều thuộc về con tôm và một phần đến từ mặt hàng cá tra. Câu chuyện hàng thủy sản nhiễm chất kháng sinh không phải là mới, nhưng nguy hiểm ở chỗ các doanh nghiệp vẫn không thể kiểm soát được. Ông Nguyễn Như Tiệp, Cục trưởng Nafiqad cho biết, nguyên nhân các lô hàng bị trả về chủ yếu nằm ở công đoạn nuôi thủy sản, nhiều cơ sở không tuân thủ đúng thời gian ngừng sử dụng thuốc trước khi thu hoạch. Ngoài ra, một số đại lý thu mua đã gom nguyên liệu từ nhiều cơ sở nuôi thủy sản khác nhau và gộp chung thành một lô nguyên liệu để cung cấp cho cơ sở chế biến khiến cho việc lấy mẫu kiểm tra dư tồn kháng sinh của doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu không có tính đại diện và mất hiệu lực.
Tỷ lệ nuôi thành công thấp, chi phí giá thành cao, dẫn đến giá bán tôm Việt Nam cao hơn ít nhất 20% so với đối thủ
Tuy nhiên ông Đặng Quốc Tuấn, Phó chủ tịch HĐQT Tập đoàn Việt Úc, lại có góc nhìn khác khi cho rằng, nếu đổ hết do nuôi thủy sản là chưa nêu đúng bản chất của vấn đề. Hiện nay, tôm Việt Nam chịu áp lực cạnh tranh với tôm Thái Lan, Ấn Độ. Tỷ lệ nuôi thành công thấp, chi phí giá thành cao, dẫn đến giá bán tôm Việt Nam cao hơn ít nhất 20% so với đối thủ. Do đó, để giảm giá thành, nhiều doanh nghiệp tăng cường sử dụng kháng sinh, hóa chất trong quá trình nuôi, bảo quản tôm nước lợ. Hệ quả, dù giảm được một phần nhỏ giá thành, nhưng lại khiến chất lượng tôm Việt Nam giảm đi rất nhiều, rủi ro bị trả về lớn hơn, thậm chí doanh nghiệp mất nhiều thị trường quan trọng.
Ông Hồ Quốc Lực, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thực phẩm Sao Ta cho rằng, nếu như nuôi cá tra, doanh nghiệp có vùng nuôi, tự chủ nguyên liệu và có quy trình kiểm soát tốt thức ăn, thuốc kháng sinh thì ngược lại, các doanh nghiệp không xây dựng được vùng nuôi tôm do chi phí cao, mà nguyên liệu hầu hết thu gom từ các hộ nuôi nhỏ lẻ. Do không có quy trình nuôi bền vững, nguồn nước ô nhiễm, liên tục gặp dịch bệnh, nên các hộ này bắt buộc phải tăng lượng kháng sinh, thuốc thú y để giảm thiệt hại.
Giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam năm 2015 dự báo chỉ đạt 2,9 tỷ USD, thấp hơn 1 tỷ USD so với năm 2014
Tất nhiên, không đơn thuần những lô hàng bị trả về là xong mà nó đang ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu và giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của nước ta. Với chất lượng mặt hàng thủy sản suy giảm, dịch bệnh làm giảm số lượng, đối mặt với hàng rào kỹ thuật, sự cạnh tranh của các nước như: Ẩn Độ, Thái Lan, Ecuador… Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) dự báo, giá trị kim ngạch tôm năm nay chỉ đạt 2,9 tỷ USD, thấp hơn 1 tỷ USD so với cùng kỳ 2014. Và tính trong 9 tháng đầu năm 2015, kim ngạch xuất khẩu cá tra chỉ đạt 1,158 tỷ USD, giảm 9,3% so với cùng kỳ năm 2014. Các thị trường nhập khẩu cá tra chính như: Mỹ, EU, Asean, Mexico và Brazil đều giảm khá mạnh. Với hai mặt hàng thủy sản chủ lực là tôm và cá tra đều giảm về số lượng xuất khẩu và giá trị nên Vasep không kỳ vọng ngành thủy sản đạt mục tiêu 8 tỷ USD như đã đặt ra từ đầu năm.
Đối phó cách nào?
Ông Phạm Văn Đông cho biết, hàng thủy sản bị trả về còn có nguyên nhân khác như tàu đưa nhầm cảng; bao bì, nhãn mác không đúng tiêu chuẩn, bị rách, ghi sai quy cách nên những lô hàng này sẽ được tiêu thụ như bình thường tại thị trường nội địa. Nhưng với hàng bị trả về vì dư lượng kháng sinh vượt ngưỡng thì muốn tiêu thụ ngay trong nước cũng sẽ bị giám sát, kiểm tra chất lượng nghiêm ngặt như thủ tục đối với hàng nhập khẩu vào Việt Nam, nếu không đạt buộc phải tiêu hủy. Ông Hồ Quốc Lực cho rằng, để tránh việc hàng thủy sản bị tồn dư kháng sinh cần phải làm căn cơ hơn và đi từ gốc vấn đề. “Công ty Sao Ta đã xây dựng được quy trình kiểm soát an toàn cho nguyên liệu tôm sạch, đồng thời tự chủ nguồn nguyên liệu bằng việc xây dựng vùng nuôi riêng của mình thay vì thu mua từ những nơi không kiểm soát được nguồn gốc. Ngoài ra, Sao Ta chủ động liên kết với nhiều hộ nông dân, thành lập các tổ hợp tác với vùng nuôi 50-70 ha trở lên, sản xuất theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP). Cách làm này sẽ giúp không chỉ kiểm soát được chất kháng sinh mà còn tăng được năng suất”, ông Lực cho biết.
Trong khi đó, Công ty cổ phần Thủy sản thương mại Thuận Phước nhập khẩu nguyên liệu từ Ấn Độ để làm hàng xuất khẩu. Mặc dù cách làm này chưa phải giải pháp tối ưu, nhưng theo ông Trần Văn Lĩnh, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thuỷ sản thương mại Thuận Phước, Ấn Độ là nước có quy trình kiểm soát dịch bệnh, tồn dư kháng sinh rất nghiêm ngặt, nên hàng xuất khẩu sẽ không bị dính vào các quy định tồn dư kháng sinh từ các nước nhập khẩu khó tính.
Tóm lại, ngành xuất khẩu thủy sản nước ta vẫn rất bấp bênh khi không kiểm soát được nguồn gốc, dẫn đến việc liên tục bị mất uy tín và giảm sản lượng hàng xuất khẩu ra quốc tế. Thực trạng này nếu không được giải quyết rốt ráo sẽ ảnh hưởng lớn tới cả người nuôi trồng và các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản làm ăn chân chính.