Cá lợ thân thấp

:
: Cyprinus multitaentiata Pellegrin & Chevey, 1936
:
Phân loại
Cyprinus multitaentiataPellegrin & Chevey, 1936
Ảnh Cá lợ thân thấp
Đặc điểm

Cá cỡ nhỏ, thân cao, hơi gù, dẹp bên. Có 2 đôi râu dài gần bằng nhau. Miệng hướng trước. Môi dày. Mõm ngắn. Mắt khá lớn. Khoảng cách 2 mắt rộng. Vây lưng có khởi điểm trước khởi điểm vây bụng. Hậu môn trước khởi điểm vây hậu môn. Tia đơn cuối của vây lưng và vây hậu môn hoá xương cứng chắc, phía sau có răng cưa khoẻ. Lưng và hông màu nâu xám, bụng xám vàng. Sau mỗi vẩy có chấm đen làm cho thân có 12 - 13 sọc đen song song với đường bên. Các vây xám, gốc nhạt hơn.

Phân bố

Trong nước: Các sông suối miền núi phía Bắc: Hà Giang, Tuyên Quang (sông Lô - Gâm), Bắc Kạn (sông Năng - hồ Ba Bể), Yên Bái, Phú Thọ (sông Thao, hồ Thác Bà), Hoà Bình (sông Đà, hồ Hoà Bình), Lạng Sơn (sông Trung - vùng Hữu Lũng), Thái Nguyên, Bắc Giang (sông Cầu, sông Thương).
Thế giới: Trung Quốc (sông Tây Giang-Quảng Tây).

Tập tính

Cá sống ở tầng đáy, chỗ đất cát pha bùn và có nhiều cỏ nước. Tính thích ứng của cá với môi trường kém, không chịu được hoàn cảnh sống khó khăn như nước đứng, nước đục, hàm lượng oxy thấp. Cá thuộc loại ăn tạp. Thức ăn là động vật đáy, ốc, hến, vẹm nước ngọt, giun ít tơ, ấu trùng muỗi lắc, động vật nổi và tôm. Ngoài ra cá còn ăn cây cỏ non, các loài hạt mềm có bột và các mùn bã hữu cơ tích tụ ở đáy.

Cá lớn nhanh, 1 năm có chiều dài 150mm, 2 năm dài 240mm, 3 năm dài 368mm, 4 năm dài 475mm, 5 năm dài 580mm, 6 năm dài 660mm. Cá lớn nhất có thể đạt 10-15kg. 

Sinh sản

Cá thành thục khi đạt 2 năm tuổi, chiều dài 24cm trở lên. Cá tham gia đẻ nhiều ở nhóm 3 - 4 tuổi. Lượng chứa trứng của cá cái dài 72cm, nặng 51000g có 78.500 trứng và cá dài 100cm, nặng 7.000g có 85.400 trứng. Mùa sinh sản của ca từ tháng 4 - 5. Cá thuộc loại đẻ trứng dính. Bãi đẻ thường ở các khe suối, nơi tiếp giáp giữa các nguồn nước, có nhiều cỏ nước và lau sậy.

Hiện trạng

Cá Lợ thân thấp hiện đang giảm sút nghiêm trọng do nơi sinh sống thu hẹp trên 80% và sản lượng trong 10 năm gần đây giảm rất nhanh. Trong các vực nước tự nhiên hầu như không còn loài cá này. ở hồ Ba Bể (Bắc Kạn), Cá lợ thân thấp chiếm 3,5% sản lượng cá năm 1962 và 1,5 - 2,5% sản lượng cá năm 1975 (Nguyễn Văn Hảo,1975) và hiện nay không còn (Nguyễn Văn Hảo và cộng sự, 1999). Trên sông Đà, không còn thấy Cá lợ thân thấp (Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Văn Hảo và cộng sự, 2001).

Đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) với mức độ đe doạ bậc E và danh sách các loài cần được bảo vệ của ngành Thuỷ sản trước năm 1996. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có biện pháp bảo vệ loài cá này ở những vùng trọng điểm. Nếu thấy xuất hiện cần tuyệt đối cấm khai thác trong vòng từ 8 - 10 năm. Cần thu gom, lưu giữ và bảo tồn nó ở hồ Ba Bể (Bắc Kạn) và vùng sông Gâm thuộc 2 huyện Nà Hang - Tuyên Quang và Bắc Mê - Hà Giang. Nghiên cứu đưa cá về ao nuôi và tạo giống để bổ sung số lượng, phục hồi nguồn lợi trong vùng nước tự nhiên.

Tài liệu tham khảo

Sách đỏ Việt Nam - phần động vật – trang 31.

http://www.vncreatures.net/chitiet.php?page=8&loai=1&ID=5113

Cập nhật ngày 13/10/2013
bởi
Xem thêm