Mực ống

: Squid
: Teuthia A. Naef, 1916
: Mực ống
Phân loại
TeuthiaA. Naef, 1916
Ảnh Mực ống
Đặc điểm

Mực ống là nhuyễn thể có thân thon dài, hình ống, mềm, vây đuôi hình tam giác; phần thân và phần đầu có thể phân biệt rõ ràng, thân đối xứng hai bên, chiều dài thân gấp 6 lần chiều rộng. Bên trong thân có vỏ trong suốt, cấu tạo bằng chất sừng, ở giữa có gờ dọc; mắt mực ống to, trong, tương đối lớn, nằm đối xứng 2 bên. Phần đầu của mực ống có 2 xúc tu dài để bắt mồi và 8 tua ngắn.

 mực ống
Cấu tạo ngoài của mực ống.

Bao bọc bên ngoài là lớp da màu trắng hồng, có các chấm đen nhỏ trên lưng, trong da có các tế bào chứa chromatophore giúp mực ống đổi màu phù hợp với điều kiện môi trường xung quanh. Chúng còn có túi mực màu đen bên trong cơ thể, khi gặp nguy hiểm, mực được phun ra, tạo màn đen dày đặc, giúp chúng dễ dàng lẫn trốn kẻ thù. 

Chúng có ba trái tim, hai bơm máu qua mang, trong khi trái tim thứ ba được lưu thông máu qua cơ thể. Máu mực ống chứa một loại protein giàu đồng được gọi là hemocyanin.

 mực ống
Cấu tạo trong của mực ống.

Mực ống di chuyển nhờ lực đẩy phản lực. Khi lớp xoang áo mở ra, nước được hút vào, khi lớp áo đóng lại, nước được đẩy ra thông qua phễu, một cấu trúc giống như vòi bên dưới mắt, nhờ vậy mà mực ống có thể bơi theo bất kỳ hướng nào một cách nhanh chóng. xung quanh là 10 tua có giác hút. Mực ống gần bờ màu trắng sữa đẻ hơn 50.000 trứng một lần. 

Phân bố

Mực ống được tìm thấy trong nước mặn từ vùng nhiệt đới đến vùng ôn đới; thường sống ở tầng mặt, có tính hướng quang lớn. Nhiều quần thể biển đã giảm mạnh trong sáu mươi năm qua khi các đại dương trở nên ô nhiễm hơn. Nhưng số lượng mực ống đã tăng lên nhanh chóng. Điều này là do các loài động vật thân mềm như mực có những đặc điểm sinh học nhất định giúp chúng nhanh chóng thích nghi với môi trường thay đổi - tăng trưởng nhanh, tuổi thọ ngắn và phát triển linh hoạt. 

Vùng phân bố: Phân bố từ vùng biển nam Nhật Bản đến Đài Loan Malyaxia. 

Dọc vùng biển Việt Nam từ Bắc vào Nam: Hải Phòng, Thanh Hóa, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và đặc biệt là Bình Thuận là nơi có sản lượng khai thác mực ống lớn nhất.

Tập tính

Mực ống là động vật ăn thịt chủ yếu săn mồi cá, động vật giáp xác và các loài mực khác. Vì mực ống có kích thước rất khác nhau - một số loài có chiều dài dưới 1 inch, trong khi những loài khác vượt quá 30 feet chiều dài - sở thích săn mồi cụ thể của chúng khác nhau rõ rệt giữa các loài này sang loài khác. 

Một số con mực săn bằng cách đuổi theo con mồi, trong khi những con khác ẩn nấp và nằm chờ thức ăn để bơi qua chúng. Mực ống bắt mồi bằng xúc tu. Mỗi xúc tu được bao phủ bởi hàng nghìn đĩa mút nhỏ, giúp sinh vật bám chặt lấy con mồi trơn trượt của chúng. Khi bắt mồi, chúng sử dụng hai xúc tu chuyên dụng để nhanh chóng tiếp cận và bắt đối tượng. 

Còn khi gặp kẻ thù, chúng phun “hỏa mù” bằng dung dịch màu đen trong cơ thể chúng để trốn chạy.

Sinh sản

Mực ống là loài lưỡng tính, khi giao phối, con đực có cánh tay có cấu trúc đặc biệt với túi tinh trùng có tên là Seikiyo. Con cái lưu trữ tinh trùng bắn ra từ con đực và thụ tinh cho trứng trong quá trình sinh sản, chúng gắn viên nang trứng vào đáy đại dương hoặc rong biển. Sau khi đẻ trứng, chúng không bơi đi ngay mà ở lại giữ trứng.

mực ống
Hai con mực giao phối. Hình ảnh: MBARI

Thời kỳ sinh sản thường là từ tháng Tư đến tháng Sáu. Trứng bọc trong môi trường thạch dày được đặt dưới đáy biển, nhưng các loại ngoài khơi dường như tạo ra trứng nổi. 

mực ống
Mực đẻ trứng trên các giá thể dưới đáy biển. Ảnh: fineartamerica

Hiện trạng

Giá trị kinh tế: mực là loài nhuyễn thể có sản lượng khai thác và là mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực đứng sau cá và tôm. Mực sống, mực ướp đông, mực phile, mực khô, mực tẩm,… đều là những sản phẩm chế biến từ mực, có mức tiêu thụ cao trên thị trường. 

Chưa có nơi nào nuôi, sản lượng mực ống dựa vào khai thác. Ngư dân bắt mực bằng cách luồn lách, chiếu ánh sáng rực rỡ trên tàu và thả những dòng xuống nước bằng những mồi nhử đặc biệt gọi là mồi giả. Gần đây, ngư dân đã bắt đầu sử dụng lưới vây lưới lớn bao quanh mực, tạo thành túi và bẫy chúng.

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Văn Toàn (2002). Danh mục các loài nuôi biển và nước lợ ở Việt Nam, SUMA.

Cập nhật ngày 09/05/2022
bởi Thảo Ngọc
Xem thêm