TIN THỦY SẢN

Loài cá được mệnh danh là "vàng xám" trên thế giới

Trứng cá đối xám được ướp muối, sấy khô và nén lại, chúng trở thành món ăn đặc sản trên khắp thế giới Hồng Huyền

Cá đối xám, được nhiều người coi là cá tạp, tuy nhiên trứng cá đối xám có giá trị rất cao được ngư dân gọi là ’’vàng xám’’, điều này đã nâng cao giá trị thương mại của cá đối xám.

Cá đối xám, là một loài cá ven biển phân bố trên toàn thế giới, sinh sản ngoài khơi, sử dụng môi trường nước lợ và cửa sông làm môi trường ương. Giai đoạn ấu trùng ban đầu phân tán thụ động bằng cách trôi theo dòng chảy đại dương, sau đó di chuyển vào bờ ở giai đoạn ấu trùng. Sau khoảng một tháng sống ở biển, cá con sinh sống ở các ao, đầm, cửa sông ven biển. Các cá thể trưởng thành di cư trở lại biển, nơi chúng phân bố ở nhiều thủy vực khác nhau, phạm vi có thể dao động từ 32 đến 700 km. Cá đối xám là loài chủ yếu sống ngày đêm, chúng thường di chuyển trên cát hoặc đáy bùn, ăn động vật phù du. Cá trưởng thành thường ăn tảo. Loài này là euryhaline, có nghĩa là cá có thể thích nghi với các mức độ mặn khác nhau, ở độ sâu từ 0-120 m và với nhiệt độ từ 8–24°C.

Cá đối xám có tập tính sống quần đàn, điều này thể hiện mạnh nhất vào mùa sinh sản, cá thường tập trung thành từng bầy lớn di cư ra các vùng nước sâu ngoài biển để sinh sản. Cá đối xám là loài sinh sản theo mùa và mùa sinh sản của cá kéo dài từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau, tuy nhiên ở các thủy vực nước vùng cận nhiệt đới mùa sinh sản có thể ngắn hơn.


Các loài cá đối phân bố chủ yếu trong các vùng duyên hải nhiệt đới và ôn đới. Ảnh wikipedia

Theo FAO, tổng sản lượng của cá đối trong nuôi trồng thủy sản là 2,6% trong tổng sản lượng thủy sản biển. Cá đối xám là một loài ứng cử viên tuyệt vời cho cả nuôi đơn và nuôi ghép, chúng thường được nuôi trong nuôi thâm canh và bán thâm canh ở biển, nước lợ và nước ngọt và có thể ăn cả thức ăn bổ sung và thức ăn tự nhiên.

Loài này là một nguồn tài nguyên kinh tế quan trọng trên toàn thế giới và đặc biệt là ở vùng biển Địa Trung Hải, nơi nó bị bắt trong quá trình di cư sinh sản để thu hoạch trứng. Ở nhiều nơi trên thế giới, nhu cầu tăng đối với trứng cá đối đã nâng cao giá trị thương mại của loài này, sản phẩm này được gọi là ’’vàng xám’’ do giá trị dinh dưỡng từ trứng cá muối và về mặt giá thành. Vì vậy, hiện nay cá đối xám thường được thả trong các đầm nước lợ ven biển để nâng cao năng suất cá, nuôi trong ao nước ngọt thương phẩm, đồng thời nó cũng được đưa vào các hồ, hồ nước ngọt nội địa để phát triển nghề cá mới.


Trứng cá đối xám trở thành món ăn được ưa chuộng.

Trứng cá đối xám được ướp muối, sấy khô và nén lại, chúng trở thành món ăn đặc sản trên khắp thế giới, chẳng hạn như avgotaraho của Hy Lạp, Wuyutsu của Đài Loan, eoran của Hàn Quốc, karasumi của Nhật Bản, bottomarga của Ý, Haviar của Thổ Nhĩ Kỳ và batarekh của Ai Cập. Ở Ai Cập, cá được ướp muối, sấy khô và ngâm để làm fesikh. Ngoài ra, ở bờ biển Tây Bắc Florida và Alabama, loài cá đối xám còn là đặc sản của các nhà hàng hải sản. Cá đối chiên là phổ biến nhất, nhưng cá đối hun khói, nướng và đóng hộp. 

Hiện nay, cá đối xám đã được cho sản xuất giống thành công ở quy mô thương mại ở Ấn Độ, bởi ICAR-Viện Nuôi trồng Thủy sản Nước lợ Trung ương Ấn Độ. Những con cá này sẽ được nuôi trong các trang trại và được sử dụng để làm cá bố mẹ F1, sau đó chúng sẽ được nhân giống và sản xuất giống tiếp theo. Nhằm hướng tới thuần hóa loài này để có thể mở rộng quy mô sinh sản rộng lớn hơn và quá trình trưởng thành của cá ít khó khăn hơn, đây là những nỗ lực bước đầu cho sự thuần hóa loài mới từ tự nhiên vào trong chăn nuôi. Với những thành tựu đạt được thì đối tượng này sẽ chở thành đối tượng nuôi tiềm năng ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Hồng Huyền