Phát triển nuôi thuỷ sản - Bài toán cần tìm lời giải: Bài 1: Đã qua thời vàng son
Với hệ sinh thái đa dạng, từ lâu Cà Mau đã trở thành vùng nuôi thuỷ sản trọng điểm của khu vực cũng như cả nước. Tuy nhiên, do hạn chế trong quy hoạch, nhất là những hoạch định mang tính dài hơi, sự thiếu hụt trong nguồn lực đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất, sự bất cập quản lý quy hoạch, thị trường vật tư đầu vào - đầu ra, môi trường…, vùng đất Cà Mau đang gánh chịu nhiều hệ luỵ. Những hệ luỵ từ tác động của con người, cộng với sự cực đoan của thời tiết đến từ biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến sản xuất, nhất là hoạt động nuôi thuỷ hải sản và hiển nhiên, đời sống của người dân gặp khó khăn.
Phải khẳng định rằng, con tôm hiện nay vẫn là mặt hành chủ lực của tỉnh, tuy nhiên, vị trí độc tôn này đang bị lung lay nếu không có giải pháp hữu hiệu trong thời gian tới.
Trở lại câu chuyện cách đây gần 20 năm, con tôm là niềm khát khao của người dân Cà Mau. Giai đoạn này, không ít người thậm chí phải ngồi tù vì vượt rào nuôi loài giáp xác này, còn chính quyền địa phương cũng tốn không ít công sức, tiền của cho việc gia cố đập ngăn mặn mà người dân lén lút phá. Bước ngoặt cho nghề nuôi thuỷ sản nói chung và con tôm nói riêng bắt đầu từ năm 2000, khi Nghị quyết 09 của Chính phủ được ban hành, cho phép chuyển đổi diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi thuỷ sản. Sau ngày ấy, diện tích nuôi thuỷ sản của tỉnh, chủ yếu là con tôm, tăng nhanh chóng mặt, từ khoảng 75.000 ha vào năm 2000, đến nay đã hơn 275.000 ha.
Tiếp tục vượt rào…
Sở dĩ diện tích nuôi tôm trên địa bàn tỉnh tăng nhanh chóng sau khi có chủ trương cho chuyển đổi, là do canh tác lúa chủ yếu phụ thuộc vào nước trời, năng suất thấp, đời sống bấp bênh. Sau khi thay thế bằng con tôm, kinh tế gia đình nhanh chóng phất lên chỉ sau vài vụ trúng đậm, và từ đó vùng đất Cà Mau không mấy chốc trở thành vùng nuôi tôm rộng lớn. Sự gia tăng diện tích tôm trong giai đoạn hiện nay đồng nghĩa với sự mất dần những cánh đồng lúa 2 vụ ở các huyện vùng ngọt.
Ông Trần Văn Của, Chủ tịch Hội Nuôi trồng thuỷ sản tỉnh, nhận định: “Con tôm đang bao vây cây lúa 2 vụ, vùng lúa 2 vụ ngày một bị thu hẹp”.
Cùng với việc phát triển diện tích tôm thì triều cường, nước biển dâng, xâm mặn như hiện nay do biến đổi khí hậu cũng đang góp phần làm diện tích lúa 2 vụ và các khu vực vùng ngọt khác, thậm chí cả lâm phần rừng tràm mỗi năm một thu hẹp. “Chỉ cách nhau một cái bờ, con kinh, trong khi lúa - tôm thu nhập cao gấp 4-5 lần lúa 2 vụ 1 năm, thì việc bảo vệ vùng lúa 2 vụ là vô cùng khó khăn”, ông Của phân tích.
Không chỉ tăng nhanh về diện tích mà loại hình nuôi cũng phát triển không kém. Từ loại hình quảng canh truyền thống sang quảng canh cải tiến rồi đến tôm công nghiệp, tôm sinh thái dưới tán rừng và giờ hướng tới tôm công nghiệp công nghệ cao… Theo thống kế mới nhất của ngành nông nghiệp, đến nay toàn tỉnh diện tích ao nuôi tôm công nghiệp 9.876,67 ha; diện tích nuôi tôm quảng canh cải tiến khoảng 87.700 ha; diện tích sản xuất tôm - rừng khoảng 33.665 ha và khoảng 143 ha tôm công nghiệp công nghệ cao.
Sự gia tăng diện tích, đa dạng mô hình nuôi là một tín hiệu đáng mừng, nhưng một vấn đề cần quan tâm là sự gia tăng này phần lớn lại không trong vùng quy hoạch, nhất là đối với loại hình tôm công nghiệp.
Trong tổng số diện tích tôm công nghiệp hiện nay của tỉnh có đến 1.233,98 ha nằm ngoài quy hoạch. Sự phát triển vượt rào quy hoạch này kéo theo hàng loạt hệ luỵ.
Ông Ðỗ Văn Hoàng, Phân viện phó Phân viện Nghiên cứu Thuỷ sản Nam Sông Hậu, đánh giá, Cà Mau phát triển tôm công nghiêp theo kiểu “da beo”. Mà hình thức phát triển này đang gây khó khăn cho chính người nuôi, đó là điện và hệ thống thuỷ lợi... Nếu không xử lý tốt sẽ ảnh hướng đến toàn bộ vùng nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến của tỉnh do nước thải và chất thải, cũng như dịch bệnh phát sinh từ tôm công nghiệp.
Con tôm thẻ chân trắng người dân thả nuôi trên đầm tôm quảng canh được người dân áp dụng trong mùa khô vừa qua, đang được các ngành chức năng đánh giá là mang lại hiệu quả cao ở vụ đầu, với năng suất đạt bình quân 300-500 kg/ha/vụ, cũng là hình thức vượt rào quy định của Nhà nước. Hình thức nuôi tự phát này, thời gian qua cũng phát triển khá nhanh với diện tích ước khoảng 11.932 ha và đến thời điểm hiện tại vẫn còn khá nhiều hộ tiếp tục thả nuôi.
Tuy nhiên, ông Hoàng lo ngại, vấn đề thả thẻ chân trắng trên đầm tôm quảng canh là hình thức nuôi hiện nay chưa được Bộ NN&PTNT cho phép. Ðể phát triển hình thức nuôi này cần phải có nghiên cứu, đánh giá cụ thể hiệu quả và tác hại như thế nào.
Ðó là những minh chứng cho vấn đề nuôi tôm trên địa bàn tỉnh đang tiếp tục vượt rào và ngoài tầm kiểm soát của các ngành chức năng tỉnh. Chính sự vượt rào của người dân trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ luỵ là sự mất cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh trên tôm triền miên và kéo theo đời sống nhiều nông dân một thời chuộng mặn bỏ ngọt ngày một khó khăn hơn.
… Và hệ luỵ khó tránh
Sản xuất tự phát trong suốt thời gian dài đã để lại hệ luỵ vô cùng thấm thía là tình trạng dịch bệnh trên tôm ngày một gia tăng, giấc mơ làm giàu nhanh từ con tôm cũng đang ngày một xa hơn. Ðợt hạn vừa qua, với trên 153.000 ha tôm bị thiệt hại như một lời cảnh báo chua xót nhất cho tư duy sản xuất tự phát. Ðã treo đầm hơn 2 tháng qua nhưng đến thời điểm này anh Nguyễn Văn Ða, ấp Tân Phước, xã Tân Ðức, huyện Ðầm Dơi, vẫn chưa dám lấy nước để cải tạo thả nuôi vụ mới. “Một phần hết vốn, phần do gãy 3 vụ liền nên tâm trạng sợ hơn là háo hức như trước”, anh Ða bộc bạch.
Cũng theo phong trào, đầu năm 2015 anh gom hết vốn liếng tích góp được đào 1 ao nuôi tôm công nghiệp với giấc mơ đổi đời nhanh. Tuy nhiên, sau 3 vụ nuôi chỉ có vụ đầu là lấy được vốn, còn 2 vụ sau đợt nào cũng thua lỗ. Anh Ða cho biết, vụ nuôi đầu tiên tôm không gãy giữa đường nhưng tôm không lớn, thời gian nuôi kéo dài nên không có lãi, còn 2 vụ sau đó đợt nào tôm cũng chỉ mới 45 ngày tuổi là bắt đầu chết. “Cũng may ít vốn nên chỉ mới làm 1 ao, phải 2-3 ao chắc giờ lâm nợ nặng nề", anh ngao ngán chia sẻ.
Trường hợp anh Ða là một trong những minh chứng cụ thể trong tổng số hàng ngàn hộ nuôi tôm công nghiệp bị thiệt hại do sản xuất tự phát, thiếu vốn, thiếu khoa học - kỹ thuật thời gian qua.
Chính tình trạng nuôi theo kiểu đào ao rồi gắn xuống đó vài giàn quạt, thả tôm với mật độ dày hơn, kết hợp với cho ăn gọi là nuôi công nghiệp, đã làm cho diện tích bị thiệt hại ngày một lớn hơn, với hơn 1.000 ha. Số người bỏ xứ đi làm thuê ngày đông hơn.
Ðầm Dơi là huyện có thế mạnh về nuôi tôm công nghiệp trong nhiều năm qua, thế nhưng đến nay cũng đã có hơn 181 ha ao tôm công nghiệp người dân không trụ nổi, phải ban bờ chuyển sang hình thức nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến. Theo nhận định của UBND huyện Ðầm Dơi, hiện nay sản lượng đang giảm so với cùng kỳ và một trong những nguyên nhân được xác định là tình trạng dịch bệnh kéo dài, số lượng ao phải treo đầm lớn.
Là huyện có đặc thù riêng, Ngọc Hiển được xem là ít bị ảnh hưởng nhất trong đợt nắng hạn vừa qua. Thậm chí đối với loại hình tôm công nghiệp trên địa bàn huyện trong đợt nắng hạn vừa qua lại đạt hiệu quả cao từ 80-90%. Tuy nhiên, theo ông Lý Hoàng Tiến, Chủ tịch UBND huyện Ngọc Hiển, sản lượng tôm năm nay lại giảm so với cùng kỳ năm 2015, khả năng đạt chỉ tiêu đề ra là khó.
Ông Tiến cho biết thêm, theo quy luật hằng năm, nếu năm nào hạn nhiều, bão nhiều thì năm đó trúng mùa, ví dụ như năm bão lớn 1997, người dân nuôi tôm trên địa bàn huyện trúng đậm, thế nhưng năm nay ngược lại, sản lượng tôm nuôi giảm mạnh.
Sự sụt giảm sản lượng hiện nay chính là hệ luỵ của quá trình dài phát triển theo kiểu tự phát, nhỏ lẻ, mạnh ai nấy làm… khiến môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, phát sinh nhiều dịch bệnh. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng là sự hạn chế trong quản lý Nhà nước về quy hoạch, chất lượng con giống, vật tư thú y thuỷ sản; sự yếu kém về hạ tầng, nhất là hạ tầng thuỷ lợi phục vụ nghề nuôi thuỷ sản… tất cả tập trung vắt cạn tiềm lực sản xuất của người dân./.
Bài 2: Hiện hữu nhiều bất cập