TIN THỦY SẢN

Sóc Trăng: Thông báo kết quả quan trắc môi trường tháng 9

Ảnh minh họa: STV Phan Bạch Vân

Sau đây là kết quả quan trắc môi trường nuôi trồng thủy sản tại Sóc Trăng trong tháng 9 và những khuyến cáo hữu ích cho người nuôi tôm.


- Nhiệt độ nước:  dao động từ 28.4-31oC, nằm trong ngưỡng cho phép.

- Độ mặn: Độ mặn tuần này giảm từ 1-5‰ so với tuần trước. Chỉ còn 2 điểm có độ mặn 2-3‰ tại cống Xà Mách và Sáu Quế 1. Các điểm còn lại nước đã ngọt lại 0‰. Cụ thể tại Vĩnh Châu độ mặn 0‰ (bằng tuần trước và cùng kỳ năm 2017). Tại Mỹ Xuyên 0‰ (bằng tuần trước và cùng kỳ năm 2017). Tại Trần Đề còn 2 điểm có độ mặn 2-3‰ tại cống Xà Mách và Sáu Quế 1 (giảm 5‰ so với tuần trước và thấp hơn 5-9‰ so cùng kỳ 2017). Tại Cù Lao Dung thời điểm này đã ngọt lại 0‰ (bằng tuần trước và cùng kỳ năm 2017).

- Độ pH: Khu vực Vĩnh Châu (Cầu Trà Niên, Đầu Vàm Trà Niên, Kênh Vĩnh Châu), Mỹ Xuyên và Trần Đề có độ pH hơi thấp 6.1-6.9. Các điểm còn lại có độ PH nằm trong ngưỡng từ 7.0-7.8.

- Độ Kiềm:  Hiện tại độ kiềm thấp hơn đầu vụ nuôi nhưng đa số vẫn nằm trong ngưỡng dao động từ 66-100 mg/l. Riêng tại khu vực Cù Lao Dung độ kiềm thấp dưới ngưỡng dao động 40-51 mg/l.

- Độ trong: Khu vực Trần Đề và Vĩnh Châu nước đục có độ trong thấp dao động từ 5-15cm. Các điểm còn lại có độ trong trong ngưỡng từ 20-28cm.

- Oxy hòa tan: Khu vực Mỹ Xuyên và Vĩnh Châu có hàm lượng oxy hòa tan thấp dưới ngưỡng, dao động từ 1.9-3.4mg/l. Các điểm còn lại có hàm lượng oxy trong ngưỡng cho phép từ 3.8-4.6 mg/l.

Đề xuất, kiến nghị

- Hiện tại độ mặn ở tất cả các tuyến đều thấp 0-3‰ nằm dưới ngưỡng cho phép lấy nước nuôi tôm. Bà con không nên lấy nguồn nước này để nuôi tôm. Nếu nuôi tôm có thể tái sử dụng nguồn nước của vụ trước có độ mặn cao để nuôi tôm. Bà con cần tuân thủ lịch thả giống chung của ngành kết thúc thả giống vào ngày 30-9 DL. Riêng đối với vùng Mỹ Xuyên bà con nên ngừng thả giống vào thời điểm này theo Công văn số 64/CV-PNN&PTNT ngày 08/08/2018 của Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Mỹ Xuyên về việc ngừng thả giống vụ tôm 2018 để đảm bảo giữ vững mô hình luân canh tôm-lúa, ổn định về môi trường, có thời gian cách ly mầm bệnh chuẩn bị tốt hơn cho mụa vụ tôm năm 2019.

- Tình hình thiệt hại trên tôm: trong tuần thiệt hại 851,1 ha. Lũy kế 9.971 ha chiếm 20,8% diện tích thả (cùng kỳ 2017 thiệt hại 14,7%). Trong đó, Vĩnh Châu là địa phương có diện tích thiệt hại cao nhất trong tuần 837,1 ha (Vĩnh Hiệp 360 ha,Vĩnh Tân 170 ha, Khánh Hòa 169 ha, Vĩnh Phước 77 ha).

- Đối với diện tích thiệt hại hoặc sau khi thu hoạch, bà con nuôi tôm tuyệt đối không xả thải nước thải, bùn thải khi chưa được xử lý ra môi trường tự nhiên bên ngoài, mà phải có khu chứa bùn thải và xử lý nước thải sau đó mới thải ra môi trường tự nhiên. Để góp phần quản lý ao tôm tốt hơn trong giai đoạn mùa mưa hiện nay, bà con cần lưu ý một số vấn đề như sau:

1. Ổn định môi trường trong ao tôm

Hiện tại đang trong mùa mưa nên ao nuôi thường đối diện với 2 hình thế thời tiết là nắng nóng và mưa dầm đột ngột sẽ làm cho môi trường ao nuôi dễ biến động (chênh lệch nhiệt độ, tuột kiềm, sụp tảo, khí độc bùng phát,...) làm cho tôm dễ stress và dễ nhiễm bệnh. Do đó cần quản lý theo dõi thật chặt chẽ đặc biệt 03 yếu tố môi trường : (1) độ pH (đo và chuẩn lại độ pH sau những cơn mưa kéo dài); (2) độ Kiềm nên giữ độ kiềm từ 100 mg/l trở lên; (3) Giữ hàm lượng oxy hòa tan ≥5 mg/l, thường oxy thấp nhất là vào nữa đêm đến gần sáng. Đồng thời chuẩn lại các thông số môi trường khác trong ao tôm sao cho nằm trong ngưỡng thích hợp và ổn định cho tôm nuôi

* Riêng đối với ao đất:

- Rải vôi xung quanh bờ ao trước những cơn mưa và định kỳ sử dụng vi sinh (Bacillus sp, Lactobacillus sp, Nitrosomonas/Nitrobacter, Rhodobacter…) hoặc tiến hành xiphone đáy ao (nếu có hệ thống xiphon) để giúp giảm thiểu chất hữu cơ trong ao, giảm sức tải môi trường trong ao nuôi… giúp đáy ao sạch, môi trường thích hợp cho tôm.

* Đối với ao bạt:

- Nên thiết kế hệ thống xiphone đáy ao, xi phon đáy ao và tuần hoàn nước hằng ngày để loại bỏ phân tôm, vỏ tôm, thức ăn thừa…làm sạch đáy ao.

- Tăng cường kiểm tra môi trường hằng ngày, đo thêm các chỉ tiêu Canxi, Magie, Kali để cung cấp đầy đủ và cân bằng khoáng cho tôm tột tốt.

2. Quản lý sức khỏe tôm nuôi:

- Bắt giống phải có giấy kiểm dịch và xét nghiệm các mầm bệnh nguy hiểm trên tôm (Đốm trắng, gan tụy cấp, Còi (MBV), EHP, TSV...) và phải thực hiện thuần dưỡng cho quen dần với 4 yếu tố đó là pH, nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm trong bọc giống với nước ao nuôi ít nhất 1 giờ rồi mới thả. Chỉ thả giống khi nhiệt độ trong ao <30oC (sáng sớm hoặc chiều mát).

- Thường xuyên theo dõi các biểu hiện bên ngoài của tôm (gan, ruột, mang...) để có biện pháp xử lý sớm và chữa trị kịp thời. Thường xuyên kiểm tra sự xuất hiện của vi khuẩn Vibrio sp trong ao nuôi để có biện pháp diệt khuẩn hoặc dùng vi sinh khống chế kịp thời, thường kiểm Vibrio 1-2 lần/tuần từ ngày thứ 20 trở đi. Mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước ao nuôi tôm nên duy trì <400 khuẩn lạc/ml để hạn chế bệnh chết sớm EMS và các bệnh do vi khuẩn Vibrio gây nên. Bổ sung các vitamin, CPSH, Beta-Glucan…vào thức ăn giúp tăng cường sức đề kháng trên tôm và chống chọi thời tiết cực đoan.

*Lưu ý: Đối với các bệnh do tác nhân là virut (điển hình là bệnh đốm trắng -WSSV) hiện nay chưa có thuốc điều trị; đối với các bệnh do tác nhân là vi khuẩn (điển hình là bệnh hoại tử gan-EMS/AHPND) có khả năng điều trị được nếu tỉ lệ tôm bệnh <30%. Kháng sinh không có tác dụng tăng sức đề kháng hoặc phòng bệnh trên tôm và điều trị kém hiệu quả, dễ kháng-kháng sinh nếu không có phát đồ điều trị đúng, dễ mất an toàn thực phẩm do tồn lưu kháng sinh trong tôm nuôi khi xuất bán.

3. Quản lý cho ăn vừa đủ:

Tôm nuôi nhất là tôm thẻ là loài rất háo ăn, tôm là loài ruột thẳng, tiêu hóa và hấp thụ chỉ 30-40% lượng thức ăn và 60-70% lượng thức ăn còn lại thải ra ngoài ở dạng phân tôm, gây ô nhiễm hữu cơ, tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại, khí độc và tảo độc phát triển. Do đó nên cho tôm ăn ít, vừa đủ khoảng 80-90% lượng khuyến cáo/bảng cho ăn thông thường. Đối với ao thả mật độ thưa thì ban đầu nên gây tạo nhiều thức ăn tự nhiên (Copepoda/trứng nước) và trong giai đoạn đầu (trước 20 ngày) nên cho tôm ăn ít và hạn chế tối đa lượng thức ăn cho tôm ăn. Những ngày trời lạnh, âm u, mưa dầm nên chủ động giảm 30-50% lượng thức ăn sau đó cho ăn lại bình thường khi thời tiết tốt. Đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan trong nước ≥ 5 mg/l để giúp tôm khỏe và tiêu hóa chuyển hóa tốt thức ăn. Không nên sử dụng kháng sinh trộn cho tôm ăn để chữa trị hoặc phòng bệnh mà nên sử dụng các loại CPSH hoặc các loại thảo dược như tỏi, trái cau, lá ổi, cây mật gấu, diệp hạ châu… để phòng ngừa bệnh đường ruột và gan tụy.

* Lưu ý:

Bà con cần chủ động đo đạc các yếu tố môi trường trong ao nuôi, đồng thời theo dõi sát kết quả quan trắc môi trường nước cũng như thông tin cảnh báo dịch bệnh, thông tin về bản tin thời tiết, giải pháp khuyến cáo của ngành chức năng để có cách xử lý ao tôm kịp thời, chủ động ứng phó với thời tiết cực đoan.

Hiện nay thị trường tôm trên thế giới không những cạnh tranh về sản lượng mà còn cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh về giá thành làm ra sản phẩm (chi phí sản xuất)  do đó nuôi tôm bà con hạn chế tối đa việc lạm dụng thuốc hóa chất vào ao tôm và quản lý cho ăn vừa đủ, tiết kiệm thức ăn, tiết kiệm điện, chủ động kết nối liên kết tất cả các vật tư đầu vào (giống, thức ăn, thuốc men, bạt phủ, lưới che, cánh quạt,…) cũng như liên kết đầu ra nhằm giảm tối đa giá thành sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm.

Phan Bạch Vân Chi cục Thủy Sản Sóc Trăng