Bệnh hoại tử mắt của tôm
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây bệnh là do các vi khuẩn Vibrio spp (V. harveyi, V. vulnificus, V. alginolyticus, V.anguillarum, V. parahaemolyticus…); virus hình que (giống như virus của cơ quan Lympho, virus ở mang và virus đầu vàng). Nhìn qua kính hiển vi điện tử, cho thấy tế bào thần kinh trong vùng hội tụ (gần màng đáy) chứa các túi tế bào chất (đường kính 1-3µm) có các hạt (đường kính nhân 15-26nm) và vỏ (Nucleocapsid) hình que. Virus hình que có chiều dài 130-260nm, đường kính 10-16nm .
Triệu chứng
Tôm hôn mê, lờ đờ, kém ăn, ruột không có thức ăn, thân tôm chuyển màu đen, mang có màu nâu, cơ đuôi trắng, đuôi và vỏ kitin hoại tử. Tôm lúc sắp chết mắt có dấu hiệu nhiễm trùng viêm, hoại tử , u hạt và mềm nhũn, thấy rõ trong lát cắt mô học. Hoại tử của mắt là chứng phù và thâm nhiễm của tế bào máu ở những địa điểm áp xe.
Ví dụ thường ở lớp giữa hạch thần kinh mỏng (LG) và vùng hội tụ hẹp (20àm) có các tế bào máu tự do. Nếu mắt bị bệnh thì lớp giữa rộng 50-100àm có dịch màu hồng của tế bào bị viêm.
Mạch máu và kẽ hở của hạch thần kinh mỏng đã mở rộng đáng kể và các tế bào máu tạo thành đường nhăn. Vùng khúc xạ và các vùng khác trong mắt tìm thấy các tế bào hoại tử và thoái hóa ở những chỗ áp xe.
Hoại tử mắt thường gặp ở các ao nuôi tôm từ 10- 50%. U hạt của mắt thường xuất trong các ao nuôi tôm khi mắt có hiện tượng nhiễm melanin trên tầng biểu bì. Tỷ lệ u hạt của mắt xuất hiện từ 2-5% ở những tôm sắp chết. Nó có đặc điểm là được thay thế bởi mắt con, u hạt và cấu trúc bên trong của mắt với những mô sợi bắt màu eosin chứa các hạt nhỏ nhiễm melanin của tế bào máu, tế bào thoái hóa, hoại tử, lớp nhiễm melanin của các tế bào máu bên dưới lớp biểu bì.
Mắt phồng (rộp) chiếm 1-2% ở tôm sắp chết có đặc điểm là hoại tử ở mô thần kinh, khoang nhỏ, mạch phát triển rộng trong hạch lõi. Nghiên cứu cẩn thận mô thần kinh hoại tử phát hiện thấy các tế bào đa nhân khổng lồ. Những dấu vết còn lại của tế bào cho thấy, chúng bao quanh và để lộ ra các hạt chất nhiễm sắc mà chúng là các đại thực bào chết của hệ thống thần kinh. Kiểm tra thần kinh mắt thấy rõ tế bào thần kinh đệm trương to. Rải rác khắp nơi ở cuối ngoại biên của thần kinh mắt có khoảng trống chứa các tế bào hình tròn nhân nhỏ, như sự thoái hóa của sợi thần kinh. Trong một số lát cắt mô mắt có một số vi khuẩn hình que bắt màu hồng, Vi khuẩn gram âm có trong huyết tương, kẽ lỏng và không bào, nhân tế bào trương to và kết đặc.
Kiểm tra mô học của mang, gan tụy có thấy u hạt, biểu bì nhiễm melanin và các vi khuẩn ở trong các kẽ hở của mang. Mức độ nhiễm vi khuẩn Vibrio spp ở trong các mô của tôm sắp chết tăng từ 10-100 lần so với tôm khỏe. Mang của tôm sắp chết mức độ nhiễm Vibrio spp cũng rất cao, kết quả chúng bám bên ngoài cũng gia tăng. Mức độ nhiễm trung bình 2,2. 105 khuẩn lạc/g đuôi tôm; 2,1.103 khuẩn lạc/ml huyết tương; 3,6. 103 khuẩn lạc/g mắt tôm. Phân lập ở trong mắt tôm sắp chết có các loài vi khuẩn: Vibrio harveyi chiếm 29,6% và các loài khác V. vulnificus 21,6%, V. alginolyticus 10,2%, V. anguillarum 10,2%, V. parahaemolyticus 4,2%... (theo Paul T. Smith, 2000).
Phân bố
Bệnh ở mắt thường gặp ở vùng nuôi tôm ở khu vực châu ¸ Thái Bình Dương và óc. Hiện nay mới có thông báo gặp ở tôm sú nuôi. Việt Nam chúng đã xuất hiện bệnh mắt (còn gọi là bệnh đui mắt) tôm sú nuôi từ tháng thứ hai. Bệnh xuất hiện nhiều vùng Trung bộ và Nam bộ là chính, ở miền Bắc gặp ở Quảng Ninh những ao tôm sú nuôi thâm canh (Bùi Quang Tề, 2004, 2006).
Phòng trị
Áp dụng biện pháp phòng chung