Bệnh tôm ở châu Á
Ngày 28 tháng 2 năm 2015, tại Hội nghị lần thứ 13 từ Nhóm Tư vấn về thú y thủy sản ở khu vực Châu Á được tài trợ bởi Mạng lưới Trung tâm Nuôi trồng thủy sản châu Á-Thái Bình Dương (NACA), Giáo sư Timothy William Flegel đã trình bày một bài báo về bệnh tôm ở châu Á. Sau đây là trích đoạn từ báo cáo được xuất bản trong Tạp chí Thủy sản:
Hội chứng đốm trắng (WSSV) và loại 1 loại virus gây bệnh đầu vàng (YHV-1) vẫn là một trong những tác nhân gây bệnh do virus gây chết tôm sú và tôm thẻ với tỷ lệ cao, mặc dù bệnh đầu vàng (YHV-1) chỉ giới hạn ảnh hưởng đến Thái Lan. Theo nguồn tin mới, biến thể của chúng YHV-8 có thể gây chết người. Tuy nhiên, bệnh đã được phát hiện ở Trung Quốc, và được khuyến cáo gán cho chúng 1 thẻ bệnh, phương pháp phát hiện chúng được đăng tải trên website của NACA. Bắt nguồn từ Trung Quốc, một loại virus mới được gọi là "covert mortality nodavirus" (CMNV) đã được báo cáo gần đây. Chúng tôi nhận thấy bệnh xuất hiện khoảng 40% trong các trang trại nuôi tôm Thái Lan; và gần đây chúng tôi đã nhận được dữ liệu RT-PCR tích cực từ Ấn Độ. Phạm vi và tác động đến khu vực nuôi cụ thể chưa được xác định. Lại một lần nữa, khuyến cáo thẻ bệnh cho bệnh mới này, bao gồm các phương pháp phát hiện RT-PCR cụ thể được đăng tải trên NACA, các nước thành viên cùng nhau làm việc để nghiên cứu sự phổ biến và tác động của loại virus này.
Đối với tôm thẻ, các mối đe dọa quan trọng bởi tiếp theo là bệnh hoại tử cơ (IMNV, vẫn chỉ giới hạn ở Indonesia). Virus gây hội chứng Taura (TSV) và hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu (IHHNV) không phải là mối đe dọa nghiêm trọng đến trữ lượng tôm thẻ, đôi khi biểu hiện của bệnh là đoạn bụng bị biến dạng (ASDD), kết hợp với một chất giống như retrovirus.
Đối với tôm sú, các mầm bệnh virus quan trọng tiếp theo là virut hội chứng chầm tăng trưởng Laem Singh (LSNV) và Integrase-Containing Element (ICE) kết hợp với hội chứng tăng trưởng chậm (MSGS), nhưng cho đến nay chỉ có ở Thái Lan. Ít quan trọng là bệnh teo gan tụy - HPV (Hepatopancreatic parvovirus) và bệnh còi (MBV), nhưng chỉ khi sú được đánh bắt ngoài tự nhiên và sử dụng để sản xuất hậu ấu trùng mà không cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Các mối đe dọa bệnh không lan truyền quan trọng nhất cho cả hai loài từ năm 2009 đã được gọi là (unadvisedly) hay "hội chứng chết sớm" (EMS). Nó cũng còn được biết đến với tên là "bệnh hoại tử gan tụy cấp tính” (AHPND), vì đặc trưng bởi sự tróc lớn các tế bào biểu mô gan tụy sau khi chết. Tác nhân gây bệnh được phân lập là do chủng Vibrio parahaemolyticus tiềm năng mang một plasmid có chứa hai gen độc tố có khả năng kết hợp với nhau gây chết tôm. Hai phương pháp phát hiện PCR tạm thời (AP1 và AP2) đã được giới thiệu trên trang website NACA vào tháng 12 năm 2012 dựa trên sự phát hiện plasmid, và hóa ra AP2 là phương pháp tốt nhất với độ sai lệch khoảng 3%. Mặc dù với điểm yếu này, phương pháp này đã được sử dụng thành công khi hé lộ tỷ lệ nhiễm khuẩn AHPND trong thức ăn tôm bố mẹ (giun nhiều tơ và hai mảnh vỏ), trong đàn cá thể bố mẹ và trong postlarvae sử dụng cho các ao nuôi dự trữ. Một phương pháp PCR mới là AP3, đã được phát hành trên website của NACA vào tháng 6 năm 2014. Kết quả thu được là không có hiện tượng dương tính giả hoặc kết quả âm tính với 104 mẫu vi khuẩn thử nghiệm. Vì thế, phương pháp AP3 được khuyến cáo sử dụng để xác định các nguồn vi khuẩn AHPND trên tôm hoặc các vật liệu khác được loại trừ từ các cơ sở sản xuất tôm. Phương pháp này cũng được khuyến cáo rằng việc thực hành nuôi dưỡng động vật biển sống cho tôm bố mẹ được khuyến khích mạnh, trừ khi chúng được chứng minh là không có vi khuẩn và các mầm bệnh khác như AHPND.
Các biện pháp phòng ngừa có thể chống lại tác nhân gây bệnh xâm nhập từ thức ăn sống và những biện pháp này có thể gây chết chúng (làm suy giảm thứ tự mong muốn), bao gồm phóng xạ gamma (tiệt trùng), thanh trùng hoặc đông lạnh. Mục đích cuối cùng của những phương pháp này (đóng băng) là tiêu chuẩn thực hành cho tôm bố mẹ sử dụng giun nhiều tơ, và nó vẫn còn được thực hành ở Bắc và Nam Mỹ. Với thói quen phổ biến rộng rãi là cho ăn giun nhiều tơ sống, tuy nhiên chúng lại dường như đã phát sinh dựa trên sự tăng lượng sản xuất nauplii, trong khi bỏ qua tất cả các mối quan tâm an toàn sinh học. Có lẽ sẽ tốt hơn khi chấp nhận giảm sản lượng nauplii để đảm bảo tính toàn vẹn của SPF bố mẹ. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nguy cơ khi tiếp xúc với mầm bệnh trước đó chưa biết đến. Một cách khác để giải quyết vấn đề của việc truyền bệnh từ giun nhiều tơ sống đã được để tạo ra dòng SPF trong các cơ sở nuôi khép kín.
Ngoài AHPND, tác nhân gây bệnh khác liên quan đến gan tụy là kí sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei là vấn đề nổi bật trong tôm bố mẹ và tôm nuôi. Sự lây lan nhanh chóng của khu vực AHPND và đồng thời gia tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn với nhiều khuẩn khác biệt rõ rệt, tác nhân gây bệnh đặc hữu là E. hepatopenaei, với tình hình hiện nay thì ở châu Á có thể là do ngành công nghiệp yếu kém trong việc kiểm soát chặt chẽ các biện pháp an toàn sinh học trong sản xuất giống và ao nuôi. Điều này có thể phát sinh từ khi áp dụng rộng rãi các tác nhân gây bệnh miễn nhiễm trên dòng (SPF) trên tôm thẻ P. vannamei ở châu Á từ năm 2001 làm giảm đáng kể dịch bệnh trên tôm nuôi. Ngay cả khi sản xuất dựa trên việc sử dụng trữ lượng SPF, bất kỳ sự suy giảm trong các biện pháp an toàn sinh học sẽ làm cho ngành công nghiệp dễ bị tổn thương dẫn đến sự xuất hiện của bất kỳ tác nhân gây bệnh mới.
Bắt đầu từ 150 ao trong một nghiên cứu Thái Lan đến 200 ao được lựa chọn ngẫu nhiên trước khi thả giống, tỷ lệ ao nhiễm AHPND nằm trong khoảng 24%, trong khi tỷ lệ nhiễm kí sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là 49%.
Đối với tất cả các tác nhân gây bệnh được mô tả ở trên, các biện pháp kiểm soát hữu hiệu nhất để giảm nguy cơ mắc bệnh là sử dụng postlarvae có nguồn gốc từ dòng thuần SPF (với một loạt danh sách loại trừ mầm bệnh, bao gồm tất cả các loại virus và ký sinh trùng lớn cho đến E. hepatopenaei), thiết lập nuôi trồng an toàn sinh học theo thông lệ quản lý nhằm tối ưu (không tối đa) trong sản xuất.