Đông dược phòng và trị bệnh gan thận mủ ở cá tra
Ưu điểm của thuốc đông dược trong phòng và trị bệnh gan thận mủ ở cá tra đã được chứng minh. Tuy nhiên quá trình áp dụng đại trà lại vướng không ít khó khăn.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Nhiều hộ nuôi cá tra thương phẩm cho biết trong quá trình nuôi, bên cạnh một số loại bệnh thường xuyên xuất hiện như bệnh ký sinh trùng, bệnh đốm đỏ hay xuất huyết,… bệnh gan thận mủ lại là một trong những bệnh có ảnh hưởng quan trọng đến năng suất, sản lượng đồng thời là một trong những bệnh thường hay nhiễm đối với cá tra ương nuôi.
Công trình của các viện nghiên cứu, trường đại học cho thấy tác nhân gây bệnh gan thận mủ là vi khuẩn Edwardsiella ictaluri, lần đầu tiên được phát hiện trên cá nheo (Ictalurus furcatus) ở Mỹ (Hawke, 1976), cá trê trắng (Clarias batrachus) ở Thái Lan (Kasornchandra 1987).
TS Nguyễn Phú Hòa – Trường ĐH Nông Lâm Tp HCM cho biết bệnh gan thận mủ xuất hiện khi nuôi cá tra với mật độ dày, môi trường ô nhiễm. Ở Việt Nam, bệnh thường xuất hiện vào mùa mưa lũ từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm, trên tất cả các giai đoạn phát triển của cá tra. Tỷ lệ hao hụt lớn nhất ở cá giống, nhưng thiệt hại lớn nhất về kinh tế thường ở giai đoạn cá nuôi đạt 300-500g. Khi bệnh nặng cá thường bỏ ăn, bơi lờ đờ, xuất hiện nhiều đốm trắng đục trên gan, thận, tỳ tạng, tỷ lệ chết cao. Những năm gần đây bệnh xuất hiện quanh năm. Tỷ lệ hao hụt có thể lên tới 10-50% tùy vào chế độ chăm sóc và hệ thống ương nuôi.
Bệnh gan thận mủ ở cá tra thường tái đi tái lại nhiều lần, thuốc tân dược phần lớn được sử dụng trong điều trị bệnh, tốn công và chi phí rất lớn. Đặc biệt là tình trạng tồn lưu dư lượng kháng sinh với các hóa chất cấm trong cá cao. Đây thật sự là một thách thức đối với ngành với ngành cá tra khi yêu cầu vệ VSATTP từ các nước NK ngày càng khắt khe.
Ứng dụng đông dược phòng và trị bệnh gan thận mủ
Để tìm giải pháp cho vấn đề trên, đề tài nghiên cứu khoa học “Sản xuất thử - thử nghiệm thuốc đông dược phòng trị bệnh gan thận mủ ở cá tra” do kỹ sư Dương Văn Hai chủ nhiệm, nghiên cứu những bài thuốc đông dược ở địa phương chuyên trị bệnh gan, thận cho người, tính toán, phối hợp gia giảm những hoạt chất kháng sinh hoặc bổ sung thêm một số thành phần dược liệu bổ dưỡng sao cho phù hợp với yêu cầu của nghề NTTS nói chung và điều trị bệnh gan thận mủ ở cá tra nói riêng. Đề tài đã được Sở Khoa học Công nghệ Bến Tre chấp nhận và cấp kinh phí thực hiện. Năm 2008 - 2009, 18 lô thử nghiệm đã được tiến hành và cho kết quả rất tốt, được hội đồng khoa học công nhận và ra quyết định nghiệm thu ngày 22/11/2010.
Việc sử dụng đông dược phòng và điều trị bệnh ở cá tra đã khẳng định được tính ưu việt. Theo tính toán, với liều lượng 3g/kg thức ăn, cho ăn thức ăn trộn thuốc 3 ngày và không trộn thuốc 7 ngày. Kết quả nâng tỷ lệ sống trong ương cá tra giống lên 2-5%, thời gian ương được rút ngắn từ 10-15 ngày. Đặc biệt, chi phí sử dụng thuốc thấp hơn nhiều so với sử dụng tân dược. Cụ thể: nếu sử dụng đông dược, chi phí thuốc sẽ là 400-500đ/kg đối với cá giống, 600đ/kg đối với cá thương phẩm; trong khi đó, đối với thuốc tân dược con số lần lược sẽ là 3.500-4.000đ/kg và 1.000-1.200đ/kg. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc đông dược sẽ hạn chế tối đa hiện tượng cá bị nhiễm dư lượng kháng sinh, lại tận dụng được nguồn nguyên liệu địa phương, góp phần tích cực xóa đói giảm nghèo, tạo thêm thu nhập cho người dân.
Kỹ sư Lê Văn Đức, Công ty TNHH Dịch Vụ Nông nghiệp Minh Bảo, đơn vị đầu tiên thương mại hóa đông dược trong phòng và điều trị bệnh gan thân mủ ở trên cá tra, cho biết: “Với những lợi ích to lớn về kinh tế cũng như về xã hội, việc sử dụng đông dược trong NTTS sẽ là một xu hướng trong tương lai”.
Dự án “Thuốc đông dược phòng và trị bệnh gan thân mủ ở cá tra” do Trung tâm Chuyển giao Công nghệ - Dịch vụ và Phát triển Công đồng Nông Ngư nghiệp Việt Nam (FACOD) phối hợp với Công ty TNHH Dịch vụ Nông nghiệp Minh Bảo thực hiện đã nhận được sự tài trợ với tổng kinh phí 30.000 USD của Ngân hàng Thế giới (WB) thông qua cuộc thi “Ngày sáng tạo Việt Nam năm 2011”. Thời gian thực hiện dự án là 15 tháng, tập trung vào 3 mục tiêu chủ yếu: (i) Phát triển ứng dụng thuốc đông dược phòng trị bệnh gan thân mủ trên cá tra, giúp giảm chi phí, tăng lợi nhuận cho người nuôi; (ii) Hạn chế sử dụng tân dược, đảm bảo an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường, an toàn thực phẩm hướng tới nuôi cá tra theo hướng bền vững; (iii) Góp phần tạo thế mạnh cạnh tranh cho con cá traViệt Nam trên thị trường quốc tế
Tư duy người sản xuất – rào cản đầu tiên
Việc sử dụng thuốc đông dược đã đạt được một số kết quả nhất định, có khả năng mở ra cách điều trị bệnh gan thận mủ ở cá tra hữu hiệu, góp phần sản xuất cá tra không có dư lượng kháng sinh, cá thương phẩm đạt tiêu chuẩn VSATTP, đáp ứngđược yêu cầu XK và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên quá trình ứng dụng đông dược vào trong sản
xuất đại trà gặp không nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc thay đổi tư duy, cách suy nghĩ của người sản xuất.
Anh Phạm Hồng Tươi – chuyên viên Phòng Quản lý chất lượng, Chi cục NTTS Bến Tre cho biết: “Quá trình ứng dụng đông dược vào sản xuất đại trà gặp không ít khó khăn do sản phẩm còn quá mới mẻ. Đặc biệt, việc thay đổi tư duy người sản xuất rất khó khăn, do họ đã quen với việc sử dụng thuốc tân dược, có hiệu quả tức thời. Ngoài ra, cơ quan chức năng cũng không dám “mạnh tay” khuyến cáo việc sử dụng đông dược đến hộ sản xuất, vì thuốc đông dược sẽ cho những tác dụng khác nhau trong những điều kiện môi trường nuôi khác nhau”.
Bên cạnh đó, người nuôi vẫn không mạnh dạn sử dụng thuốc đông dược một cách phổ biến mặc dù thừa nhận lợi ích to lớn của chúng. Ông Nguyễn Ngọc Thơm - chủ hộ nuôi cá tra có diện tích 7.000 m2 tại Phú Đức, Châu Thành, Bến Tre - cho biết: “Hiệu quả về mặt kinh tế của đông dược chúng tôi thấy rõ, nhưng quá trình áp dụng tôi vẫn không mạnh dạn lắm. Lúc cá bình thường tôi vẫn sử dụng nhưng khi có dấu hiệu bệnh là tôi chuyển qua sử dụng tân dược ngay vì sợ trở tay không kịp”
Rõ ràng, tâm lý của người nuôi vẫn là yếu tố quan trọng nhất quyết định việc phổ biến ứng dụng đông dược vào sản xuất thực tiễn. Quá trình thay đổi tâm lý người nuôi cần nhiều thời gian và cần sự phối hợp của các cơ quan có liên quan. Các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cần có nhiều công trình nghiên cứu hơn nữa, kiểm tra tác dụng thực của thuốc ở các điều kiện môi trường khác nhau, thiết lập một số mô hình trình diễn mẫu có những địa bàn khác nhau… Những việc này sẽ là tiền đề quan trọng và cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý đẩy mạnh việc khuyến khích ứng dụng đông dược vào trong sản xuất đến nông dân.