TIN THỦY SẢN

EHP: Khó kiểm soát trên tôm nuôi, gia tăng sự bất ổn trên thị trường

Kiến Văn

Ở hội nghị GOAL về tôm tại Vancouver, BC vào tháng 10, một số chuyên gia đã trao đổi về dịch bệnh mới - EHP, cùng với dự báo về nguồn cung tôm toàn cầu.

Được dự báo đến sớm hơn ngay sau khi sản lượng tôm toàn cầu phục hồi bởi EMS, câu hỏi thường niên là: Cung cấp tôm sẽ bị gián đoạn thêm một lần nữa? Câu trả lời dường như là có và không.

EHP là gì?

EHP là viết tắt của cụm từ Enterocytozoon hepatopenaei, microsporidean là quá trình ký sinh trùng hình thành bào tử. Là một loại nhiễm trùng nấm.

Theo các chuyên gia, có hơn một triệu loài, trong đó có nhiều loài là côn trùng. Nhiều loài đang ký sinh trên động vật giáp xác, cá và thường yêu cầu vật chủ thứ cấp.

Trước đây microsporidean phổ biến nhất trên tôm Thelohania, nguyên nhân gây bệnh tôm bông. Microsporidean có một máy chủ trung gian từ một cá động vật như cá măng biển, thỉnh thoảng gây hiện tượng bông đuôi trên tôm.

EHP không lây nhiễm sang của loài 2 mảnh vỏ, nhưng lại lây nhiễm ở các mô hypatopancreatic, tương tự trên cơ quan mà các độc tố từ EMS nhắm mục tiêu đến. EHP cũng đòi hỏi một máy chủ trung gian để lây nhiễm.

Làm thế nào EHP ảnh hưởng đến tôm?

Ký sinh trùng EHP hình thành bào tử. Khi một bào tử phát hiện một vật chủ thích hợp trên tôm, ký sinh trùng sẽ sinh trưởng và bắt đầu lấn chiếm sự phát triển của tôm.

Nhìn chung, EHP làm giảm tốc độ tăng trưởng và làm tăng sự biến đổi kích cỡ trong quần thể.

Ví dụ, ở châu Á, mục tiêu tốt nhất là nuôi tôm với mật độ 80 con/m2. Những con tôm thường tăng trưởng 2 gram mỗi tuần hay nhiều hơn, vì vậy chỉ sau 100 ngày kể từ ngày thả, kích cỡ tôm sẽ thay đổi từ 16 đến 20 gram với một số cá thể lớn và nhỏ.

Đối với ao bị nhiễm EHP, kết quả sau khi thu hoạch có thể cho ra 5 cỡ tôm nhỏ.

Một chuyên gia Thái chia sẻ với chúng tôi: "Trước khi xảy ra dịch bệnh EMS, Thái Lan đã bị ảnh hưởng bởi EHP đầu tiên vào năm 2011, chúng tôi nhận thấy có sự suy giảm 10% sản lượng từ sau quá trình nhiễm bệnh. Công bằng mà nói, khi nhiễm bệnh sẽ làm giảm sản lượng từ 10 – 15%".

Tuy nhiên, một số tình tiết được giảm nhẹ. Đầu tiên và quan trọng nhất đó là mật độ. Việc giảm mật độ nuôi sẽ làm cho các bào tử ít bị tác động. Ví dụ: tại Ấn Độ, trang trại nuôi với mật độ 20 con/m2, tôm sẽ tăng trưởng tốt hơn và lớn hơn so với ao nuôi ở mật độ 50 con/m2.

Yếu tố thứ hai là độ mặn. Độ mặn thấp sẽ là giảm sự tác động và tôm sẽ tăng trưởng tốt hơn; khi độ mặn cao, tôm tăng trưởng kém và chịu tác động nhiều hơn.

Mức độ nghiêm trọng có liên quan đến EHP là tác động trực tiếp đến số lượng bào tử trong gan tụy của tôm. Số lượng bào tử nhiều hơn, tác động mạnh hơn đến tăng trưởng và làm cho tôm chậm lớn. Số lượng và mật độ bào tử gia tăng thuận so với thời điểm tôm trong ao, chính vì vậy mà sau 40 ngày nuôi, kể từ ngày có ký sinh trùng, mật độ EHP sẽ cao hơn so với ban đầu.

Nếu bố mẹ bị nhiễm bệnh, ký sinh trùng sẽ tăng trưởng mạnh về số lượng.

Kiểm soát EHP bằng cách ngăn ngừa sự lây nhiễm

Sau khi xảy ra lây nhiễm, điều trị tận gốc là không thể. Các bào tử là gần như không thể phá hủy. Một số chuyên gia nhận định các bào tử có thể chịu được khô hạn 50 năm hoặc khử trùng bằng chlorine 200 ppm. Vì vậy, nếu một trại giống hoặc trại nuôi bị nhiễm bệnh thì các biện pháp tiêu trùng khử độc phải được thực hiện quyết liệt trước khi bắt đầu nếu không muốn để ký sinh trùng lây lan.

Sự nhiễm trùng đều bắt đầu từ bố mẹ. Nếu bố mẹ tiếp xúc với bào tử, tất cả nauplii được tạo ra sẽ mang một bào tử và sau đó sẽ lây nhiễm đến toàn bộ ấu trùng và lan sang toàn bộ trại nuôi.

Một khi nhiều trang trại trong một khu vực bị lây nhiễm, nguồn nước cấp sẽ là nơi lưu dẫn bào tử tốt nhất và đưa chúng vào các trại nuôi bị nhiễm bệnh, hoặc trại sản xuất tôm giống bố mẹ hoặc chúng sẽ phát triển ra khỏi ao đã sử dụng nguồn nước trước đó.

Để ngăn ngừa lây nhiễm, toàn bộ chuỗi sản xuất phải sạch sẽ.

Vấn đề phát hiện EHP

Tạm ngừng lây nhiễm sẽ càng trở nên khó hơn vì để phát hiện bệnh là điều không đơn giản như đối với các bệnh khác.

PCR (phát hiện vật liệu di truyền) là cách đơn giản nhất để xác định sự hiện diện của EHP. Tuy nhiên, PCR đòi hỏi một số lượng DNA nhất định để cho kết quả dương tính. Và nếu một cá thể chỉ mang một vài bào tử sẽ không có đủ DNA để cho ra kết quả dương tính.

Trên tôm thì điều này khó thực hiện hơn vì nguồn bố mẹ có thể đến từ một trại giống hoặc ấu trùng đến từ một trang trại không được phát hiện trước.

EHP không giúp ích cho tôm và thường không gây chết. Vì vậy, một trong những chỉ số quan trọng của bệnh là "chết" thì cũng không có một tín hiệu cảnh báo nào khác.

Khi có EHP trong một khu vực không được điều trị, những điều xấu có thể xảy ra. Phổ biến nhất là ở Trung Quốc trong một vài năm. Các bào tử hình thành trong môi trường, kết quả làm tôm tăng trưởng chậm và chậm hơn.

Một nông dân nuôi tôm trong năm đầu tiên có thể sản xuất tôm đạt 20 gram, trong năm thứ 2 tôm đạt 15 gram và đến năm thứ 3 chỉ còn 10 gram.

Điều này phần lớn là do những câu chuyện của người nuôi tôm Trung Quốc tại thời điểm này. Nông dân không thể sản xuất tôm lớn hơn và họ đang chuyển dần sang sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh.

Kết quả là, các nhà xuất khẩu Trung Quốc đã phải nhập khẩu tôm để có được cỡ mà họ yêu cầu và để đảm bảo tôm không kháng sinh để xuất sang Mỹ và nhiều quốc gia khác.

Gia tăng đột biến trong việc từ chối nhập khẩu tôm từ Malaysia do nồng độ dư lượng kháng sinh cao cũng vấn đề của truy xuất nguồn gốc. Người nuôi tôm ở Trung Quốc không thể bán sản phẩm qua chế biến tại địa phương mà phải xuất khẩu tôm sang Malaysia và bị từ chối về lưu lượng kháng sinh tăng vọt bởi cơ quan FDA.

Trong những tháng gần đây, Malaysia đã chấn chỉnh và ngăn chặn thành công, FDA từ chối mạnh là điều tốt.

Hướng đến tương lai

Người nuôi được thúc đẩy bởi sinh khối. Nếu họ trữ với mật độ thấp, họ có khả năng để tôm phát triển càng lớn càng tốt.

Với sự hiểu biết hiện tại về EHP là khi nuôi với mật độ thấp, vấn đề tăng trưởng chậm sẽ không nghiêm trọng.

Vì vậy, tác động đến nguồn cung tôm dồi dào trên thị trường toàn cầu là phản đối về dịch bệnh hạn chế sự tăng trưởng.

Tác động thứ hai sẽ là tăng cường nỗ lực để duy trì hệ thống an toàn sinh học kín.

Dưới đây là các lỗ hổng từ nguồn tôm bố mẹ bị nhiễm bệnh và dịch bệnh không được phát hiện. Những người nuôi thành công có thể duy trì hệ thống an toàn sinh học và tỷ lệ tăng trưởng cao sẽ có lợi thế về chi phí.Cuối cùng, không giống như EMS dẫn đến chết tôm trên diện rộng, tác động của EHP khi xuất hiện không hơn kém so với chí biển trên cá hồi .. nó làm chậm sự tăng trưởng cũng như làm suy yếu, nhưng thường không gây chết.

Kết quả là, rất khó để chọn ra tín hiệu nhận biết về biến đổi bất thường của EHP trong kết quả nuôi tôm khi dựa vào thời tiết, dịch bệnh khác, thức ăn và sức khỏe tôm bố mẹ.

EHP là không có khả năng làm gián đoạn đáng kể sản xuất như EMS đã làm, tuy nhiên EHP sẽ là làn gió ngược ngăn chặn sự tăng trưởng sản xuất đến một mức độ nhiều hay ít ở nhiều vùng khác nhau.

Vì việc phát hiện EHP chưa được hoàn thiện nên rất khó để nhận biết chắc chắn mức độ bào tử đã lan rộng.

Dấu hiệu của EHP không rõ ràng ở các khu vực sản xuất mới mà đã có sự tăng trưởng ngoạn mục ở đầu ra, chẳng hạn như Ấn Độ, chúng ta sẽ thấy có nhiều ao ngưng sản xuất hoặc sản xuất kém hiệu quả trong vòng 3 năm đến 4 năm, dẫn đến nuôi với mật độ thấp hơn, hoặc thất bại trong việc để tôm phát triển tốt hơn trong ao nuôi với mật độ cao.

Lưu ý: Bài viết được chuẩn bị dựa trên các cuộc phỏng vấn với một số chuyên gia tôm, kèm theo điều kiện là không trích dẫn tên của người được phỏng vấn - JS.

Kiến Văn Seafoodsource.com/Undercurrentnews.com