Gan thận mủ - Kẻ địch mạnh nhất của cá tra
Gan thận mủ là một căn bệnh nguy hiểm, lây lan nhanh trên cá tra. Vào những tháng mưa cuối năm chính là thời gian cao điểm để vi khuẩn gây bệnh phát triển. Bài viết này sẽ chia sẻ một số thông tin cần thiết để bà con hiểu và có cách phòng trị bệnh kịp thời.
Lịch sử của bệnh
Đầu tiên, bệnh xuất hiện trên cá da trơn Mỹ (Ictalurus punctatus) vào năm 1976, gây thiệt hại nặng nề nhưng chưa rõ nguyên nhân gây bệnh. Khi đó người ta lấy triệu chứng nhiễm trùng huyết và niêm mạc đặt tên cho bệnh này. Mãi đến năm 1981, bệnh mới được mô tả đầy đủ, và tên vi khuẩn gây bệnh Edwardsiella Ictaluri đã được đặt theo loài cá da trơn của Mỹ.
Cá tra Việt Nam (Pagasianodon hypophthalmus) với năng suất và sản lượng cao hơn được nuôi thay thế cho cá basa, phát triển từ năm 1992. Do mật độ nuôi ngày càng tăng, nên bệnh trên cá tra nuôi ngày càng phát triển. Năm 2002, bệnh Gan thận mủ ở Việt Nam mới được công bố, các năm tiếp theo, bệnh này tiếp tục xuất hiện trên hơn 10 loài cá khác, nhưng cá tra vẫn loài bị thiệt hại nặng nhất.
Về vi khuẩn gây bệnh
Edwardsiella Ictaluri là một loại vi khuẩn không di động, dạng trực khuẩn. Nó sống rất lâu trong bùn đến 95 ngày ở 25oC. Vi khuẩn sẽ xâm nhập trực tiếp từ nước theo thức ăn vào ruột cá (đầu vào là hốc mũi, mang…). Ngoài ra cá bị trầy xước do đánh bắt, nuôi mật độ cao cũng sẽ tạo cửa ngõ cho vi khuẩn xâm nhập. Chim cò hay dụng cụ nuôi cũng có thể là vật làm lây lan mầm bệnh. Do đó, theo kinh nghiệm, thấy chim cò bay lượn trên ao thì nguy cơ cá tra đã mắc bệnh là rất cao.
Vi khuẩn sẽ phát triển mạnh vào những tháng có nhiệt độ thấp, mưa bão trong năm, lúc nhiệt độ vào khoảng 20-28oC. Có trường hợp áp thấp nhiệt đới vài ngày, cá tra cũng có thể nhiễm khuẩn, sau khi vùng áp thấp tan thì bệnh cũng tự nhiên hết mà không cần điều trị.
Giai đoạn mắc bệnh và bệnh tích đặc trưng
Cá bệnh từ 10 ngày tuổi (5gr/con) từ khi thả cá bột. Vì quá nhỏ nên thường khó thấy được dấu hiệu bệnh tích bằng mắt thường. Cá có thể chết kéo dài đến hết giai đoạn cá giống. Cá đạt cỡ 400-500g thì sẽ ít nhiễm bệnh hơn. Cá càng nhỏ, tỷ lệ chết lại càng cao.
Trong một chu kỳ nuôi, cá có thể mắc bệnh nhiều lần. Với các triệu chứng lâm sàng khá giống với các bệnh khác: gầy yếu, mất vẻ sáng bóng, bơi xoay vòng, tách đàn hoặc bỏ ăn ngay sau khi nhiễm khuẩn. Dấu hiệu nhận biết của bệnh này là xuất hiện các đốm trắng hoại tử (2-3mm) dày đặc trên thận, lá lách và gan cá. Thận trước và lá lách sưng rất to và có sự thay đổi màu sắc của các nội quan.
Đặc biệt, khi đúng mùa thì bệnh mới biểu hiện triệu chứng điển hình, vì khi đó độc lực mạnh nhất. Nhưng ngoài lúc có dịch, bệnh dễ ghép với nhiều bệnh khác, khi đó việc phòng trị sẽ phức tạp hơn. Cụ thể: mùa nóng thường ghép với bệnh do vi khuẩn Aeromonas hydrophila. Mùa lạnh là vi khuẩn Flavobacterium columnare hoặc một số loài ký sinh trùng khác.
Lưu ý khi phòng trị
Vì vi khuẩn sống lâu được trong bùn nên khâu cải tạo ao là rất quan trọng, phải nạo vét hết bùn đáy ao thật kỹ. Bón vôi, diệt khuẩn, phơi đáy ao đủ lâu. Đối với ao nuôi lại sau khi nhiễm bệnh phải tạt hóa chất giữ 8-10 ngày, sau đó mới xả nước bỏ để diệt khuẩn.
Bệnh gan thận mủ sẽ nặng hơn nếu chất lượng nước kém, dinh dưỡng không đảm bảo, hoặc cá bị trầy xước hay đã mắc bệnh từ trước. Do đó, các nguyên tắc phòng bệnh chung bao gồm chú ý lượng cho ăn, tăng cường sức đề kháng, cải thiện chất lượng nước và đảm bảo ổn định cho quá trình vận chuyển.
Gan thận mủ là căn bệnh khó phòng và chưa có thuốc đặc trị. Về nguyên tắc vẫn có thể sử dụng kháng sinh nhưng phải đảm bảo đúng nguyên tắc sử dụng, ngưng thuốc trước khi thu hoạch. Đã có vacxin phòng bệnh này, nhưng chưa được phổ biến ở Việt Nam. Cuối cùng, khi cá đã mắc bệnh thì phải ghi nhớ là trị bệnh cho cả đàn cá trong ao chứ không phải chỉ trị cho những con đã nhiễm bệnh. Nên quan sát thể trạng chung, trường hợp bệnh quá nặng thì không nên mất tiền điều trị vô ích.