TIN THỦY SẢN

Giải bài toán thức ăn thủy sản

Thức ăn cỡ nhỏ cho cá. Ảnh: LL/Tép Bạc Phạm Thu – Anh Vũ

Những điểm cần đạt là phải sản xuất các loại thức ăn có độ tiêu hóa cao, giảm ô nhiễm môi trường và giảm lượng bột cá đắt tiền trong thành phần thức ăn. Nếu đạt được những mục tiêu này thì lượng protein chế từ các phụ phẩm từ khai thác và nuôi (chiếm 50% trọng lượng chế biến) của Việt Nam sẽ thay thế lượng bột cá nhập khẩu.

Theo Tổng cục Thủy sản, hiện nước ta có khoảng 130 nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản với sản lượng 3,77 triệu tấn, đáp ứng 85,6% nhu cầu trong nước. Trong đó, 96 cơ sở sản xuất thức ăn cá tra, 68 cơ sở thức ăn tôm sú và 38 cơ sở thức ăn tôm thẻ chân trắng. Tỷ lệ thức ăn thủy sản phải nhập khẩu của nước ta ngày càng giảm dần, nhưng nguồn nguyên liệu để sản xuất thức ăn (như ngô, khô dầu đậu nành, đậu tương, bột cá, dầu cá hồi, nhóm các acid amin…) vẫn phụ thuộc lớn và nhập khẩu với hơn 50%.

Hiện thị phần thức ăn thủy sản gần như nằm trong tay các doanh nghiệp nước ngoài. Đặc biệt, thị trường thức ăn cho tôm gần như là độc quyền của các doanh nghiệp ngoại, các doanh nghiệp trong nước hầu như không chen chân vào được.

Chất lượng vẫn phải bàn

Theo thống kê, giá trị nhập khẩu nhóm thức ăn gia súc và nguyên liệu 5 tháng đầu năm 2018 đạt 1,61 tỉ USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương là 721 nghìn tấn và 310 triệu USD, giảm 2,4% về khối lượng và giảm 3,5% về giá trị so với cùng kì năm 2017; ngô là 3,91 tấn và giá trị 770 triệu USD, tăng 26,3% về lượng và 23,1% về giá trị; lúa mì khối lượng nhập là 2,44 triệu tấn và 568 triệu USD, tăng 13,2% về khối lượng và 28,7% giá trị; sắn và các sản phẩm từ sắn 4 tháng đầu năm ước đạt 1,3 triệu tấn và 460 triệu USD, giảm 25,6% về lượng như tăng 7,3% về giá trị.

Theo các chuyên gia, việc phụ thuộc nguồn thức ăn chăn nuôi, thủy sản nhập khẩu khiến sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi Việt Nam chứa đựng nhiều rủi ro, giá trị của ngành không cao. Trong 5 năm gần đây, giá thức ăn thủy sản tăng mạnh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chiến lược phá triển của ngành cũng như người chăn nuôi trong nước vì giá trị gia tăng thấp. Cùng đó, giá thức ăn thủy sản ngày một tăng, chăn nuôi không lãi nhiều nhưng đây vẫn là sinh kế của hàng triệu hộ nông dân. Do vậy, nhu cầu về thức ăn cho nuôi trồng thủy sản khá lớn. Song vấn đề đáng lo ngại  là chất lượng không đi kèm giá cả, và công tác quản lý còn lỏng lẻo, chất lượng chưa đảm bảo.

Hiện công tác quản lý thức ăn thủy sản ở cơ sở dường như bị bỏ ngỏ, chính quyền địa phương kiểm tra chỉ dựa vào cảm quan, chưa thường xuyên lấy mẫu để phân tích chất lượng, nên vẫn tạo kẽ hở cho cửa hàng kinh doanh thức ăn thủy sản nhỏ lẽ trà trộn sản phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ bán cho nông dân với giá rẻ để thu lợi nhuận. Ngoài ra, cơ quan chức năng chưa nắm rõ được sản lượng sản xuất thức ăn thủy sản hàng năm của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ mà chỉ ước lượng dựa trên năng lực của các nhà máy đã đăng kí số lượng với cơ quan quản lý nhà nước. Thực tế này đang đặt ra những đòi hỏi cấp bách về việc xây dựng hành lang pháp lý cho việc quản lý chất lượng thức ăn thủy sản; xây dựng các phòng kiểm nghiệm hiện đại, đạt chuẩn cùng đội ngũ cán bộ chuyên môn đủ trình độ để tăng cường công tác quản lý, giám sát. Tuy nhiên, đây vẫn còn là một câu chuyện dài…

Theo các chuyên gia, các cơ quan chức năng phải tăng cường lấy mẫu phân tích, kiểm tra chất lượng thức ăn và công bố của đơn vị sản xuất để kịp thời phát hiện vi phạm và xử lý nghiêm các cơ sở sai phạm theo quy định của pháp luật. Cần có các biện pháp quản lý ngay từ khâu nhập khẩu nguyên liệu sản xuất, đặc biệt là các chất phụ gia. Cùng với đó, ngành chức năng tập trung đẩy mạnh tuyên truyền để các doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh thức ăn và người dân nâng cao ý thức, kiên quyết nói không với chất cấm…

Bài học từ nhiều nước

Trên thực tế, việc quản lý thức ăn trong nuôi trồng thủy sản không hề khó, quan trọng là cách triển khai cũng như hệ thống pháp luật, công tác kiểm định, kiểm soát phải được thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, quyết liệt.

Điển hình như Thái lan, theo chính sách an toàn thực phẩm thủy sản ở nước này, thức ăn trong nuôi trồng thủy sản phải được đảm bảo chất lượng và đáp ứng nhu cầu an toàn thực phẩm. Quản lý chất lượng thức ăn là trách nhiệm của Viện Nghiên cứu thức ăn nội địa, phòng Nghiên cứu và Phát triển thủy sản nước ngọt thuộc Cục Thủy sản Thái Lan (Dò). Ngoài ra, nhiệm vụ này còn có sự hợp tác của cả khu vực tư nhân.

Luật Quản lý chất lượng thức ăn chăn nuôi của Thái lan đã được hình thành từ năm 1982. Theo luật này, việc quản lý chất lượng thức ăn chăn nuôi được tiến hành dựa trên thành phần thức ăn, các thức ăn hỗ hợp dùng cho nuôi thủy sinh vật và các chất bổ sung vào thức ăn. Từ năm 1991 đến nay, luật này vẫn có hiệu lực, Vụ Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã Thái Lan) có trách nhiệm thi hành luật. Bên cạnh đó, Cục Thủy sản còn ban hành các tiêu chuẩn thức ăn hiện đang lưu hành và buôn bán trên thị trường Thái Lan.

Các cơ quan quản lý chất lượng thức ăn của Thái lan chịu trách nhiệm đảm bảo tất cả các thức ăn lưu hành trên thị trường Thái Lan là an toàn đối với vật nuôi, an toàn vệ sinh và chất lượng cao, đảm bảo lợi ích cho người chăn nuôi.

Theo luật hiện hành ở Thái Lan, Cục Thủy sản chịu trách nhiệm cấp giấy phép chứng nhận đối với tất cả thức ăn nuôi thủy sản công nghiệp. Thông qua hệ thống kiểm tra, Cục Thủy sản chịu trách nhiệm quản lý chất lượng thức ăn được sản xuất phù hợp với các đối tượng nuôi. Thức ăn sản xuất phải đúng với các công thức đã được đăng ký…

Hy vọng với việc rút kinh nghiệm từ các quốc gia, việc quản lý thức ăn trong nuôi trồng thủy sản của nước ta sẽ được cải thiện, góp phần thúc đẩy phát triển ngành bền vững.

Phạm Thu – Anh Vũ Contom