Khuyến khích mô hình nuôi nhum biển
Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Lý Sơn đã phối hợp với Viện Sinh vật cảnh điều tra, đánh giá nguồn lợi cũng như đề xuất các giải pháp bảo vệ, phát triển và khai thác bền vững nhum biển trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Trong đó mô hình nuôi nhum biển được đánh giá cao.
Nguồn lợi nhum biển (cầu gai)
Nhum biển có hình cầu, đường kính dao động từ 3 – 10 cm, vỏ dày từ 3 - 4 phân và bên ngoài có rất nhiều gai. Phần thịt bên trong (thường gọi là trứng nhum) rất ít so với khối lượng vỏ của chúng. Thớ thịt của nhum biển được cấu tạo thành hình sao 5 - 8 cánh, bám dọc theo vỏ, có màu cam hoặc màu vàng. Nhum biển di chuyển khá chậm chạp và thức ăn của chúng thường là tảo biển. Tuy nhiên, khi sống tại một số vùng biển, chúng có thể ăn một số loại san hô thân mềm hoặc một số loại cỏ biển thân mềm.
Nhum biển được biết đến là một trong những loại hải sản ngon, có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Tuy nhiên, loài thủy sản này đang bị khai thác quá mức.
hần thịt bên trong (thường gọi là trứng nhum). Ảnh: Mo-no
Theo một thống kê chưa chính thức, hiện có khoảng 100 tàu thuyền khai thác nhum biển ở ven biển huyện Bình Sơn và thị trấn Đức Phổ. Trung bình mỗi thuyền đánh bắt được khoảng 300 con nhum biển mỗi ngày. Riêng tại huyện Lý Sơn, các khu vực khai thác nhum biển nằm quanh đảo. Lý Sơn có trên 150 ngư dân khai thác nhum biển, chủ yếu vào mùa hè. Hàng nghìn con nhum biển được tiêu thụ mỗi ngày. Có nghĩa là ngư dân đã khai thác nhum biển thiếu kiểm soát, dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn lợi ven biển.
Mật độ phân bố của nhum biển ở biển Quảng Ngãi là 98 con/1.000 m², mật độ phân bố cao nhất ở biển Lý Sơn với trung bình 132 con/1.000 m². Số lượng nhum biển ở Quảng Ngãi ước tính là 5,7 triệu con, ở biển Lý Sơn gần 3 triệu con, huyện Bình Sơn 1 triệu con và thị trấn Đức Phổ khoảng 1,6 triệu con – theo số liệu từ viện Hải Dương Học.
Nuôi nhum biển theo đường lối cũ nhưng thành công
Các chuyên gia thử nghiệm nuôi nhum biển trên đất của một hộ nông dân ở thôn Đông An Hải, huyện Lý Sơn. Diện tích 50 m2, từng là bể nuôi cá bớp, gồm 54 lồng hình chữ nhật, dài 60 cm, rộng 40 cm và sâu 2 m với 2,000 con nhum biển được thả. Nhum biển bố mẹ được đánh bắt tự nhiên, kích thước 2-4mm. Sau 8 tháng, nhum biển tăng trọng tốt mà không phát hiện bệnh tật, do đó không tốn tiền thuốc men. Trọng lượng trung bình của nhum biển đó sau 10 tháng đạt 115,3 ± 13,1g, tỷ lệ sống 86%.
Người dân cho biết nhum biển thích nghi với môi trường và cân nặng tốt nên dùng rong mơ (Sargassum) làm thức ăn chính. Nhum biển trưởng thành được bán với giá 10,000 – 20,000 đồng một con. Mô hình nuôi nhum biển thương phẩm sẽ giúp người nuôi tăng thu nhập, góp phần bảo tồn và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản của địa phương.
Nên dùng rong mơ khi nuôi nhum biển.
Khai thác bền vững nhum biển
Để bảo vệ, phát triển và khai thác bền vững nguồn lợi nhum biển, các chuyên gia Viện Hải dương học đề xuất một số giải pháp như định vị để bảo vệ, theo đó vị trí cho phép đánh bắt nhum biển trên 63,39 mm, vị trí hạn chế khai thác trong mùa sinh sản của nhum biển (từ tháng 11 đến tháng 4) và vị trí nghiêm cấm khai thác từ tháng 1 đến tháng 4 để bảo vệ và bảo tồn nhum biển bố mẹ.
Các nhà khoa học khuyến khích nông dân mở rộng mô hình nuôi nhum biển thương phẩm tại các vùng thích hợp của tỉnh. Họ được đề nghị làm việc với các cơ sở sản xuất tôm bố mẹ để xây dựng mô hình quản lý cộng đồng nhằm bảo vệ nguồn lợi nhum biển.