Lục bình giúp làm giảm dư lượng Đồng trong cơ thịt cá
Một nghiên cứu mới đây của Goswami S và cộng sự đã cho thấy những chứng minh rằng lục bình giúp làm giảm sự lưu tồn của kim loại Đồng trong môi trường ao nuôi cũng như trong cơ thịt cá. Qua đó có gợi ý nhằm giúp cho các đống tượng thủy sản xuất khẩu đạt được các chỉ tiêu cần thiết.
Sự nhiễm độc do đồng (Cu) trong các ao nuôi trồng thuỷ sản gây ra các mối đe dọa sinh thái đáng kể và ảnh hưỡng đến sức khỏe của đàn cá nuôi. Hầu hết các nghiên cứu sử dụng những loài thực vật phù hợp với những nỗ lực loại bỏ đồng có trong nước, nhưng hiếm khi những nỗ lực như vậy đạt được kết quả như mong muốn. Đặc biệt là những đối tượng nuôi có giá trị xuất khẩu, rào cảnh kỹ thuật là rất quan trọng, làm sao vừa không tồn đọng dư lượng kháng sinh và kim loại nặng là một vấn đề cần quan tâm nghiên cứu.
Cây lục bình hay bèo tây là một loài thực vật thủy sinh rất phổ biến tại các hệ thống thủy lợi của Việt Nam. Lục Bình thường được trồng nhiều trong ao hồ, trồng trong các bể cá trang trí, trồng tạo cảnh quan cho các hồ sinh thái hay trồng kết hợp với các loài sen, súng trong các tiểu cảnh sân vườn… Lục Bình còn là nguồn thực phẩm nông dân dùng để nuôi cá, nuôi heo, trâu, bò hay dùng làm thuốc trị các bệnh dân gian… Đây là một loài cây vừa gần gũi, vừa hữu ích cả về mặt vật chất lẫn tinh thần đối với con người. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng rễ cây lục bình có tác dụng hấp thu kim loại năng như Asen và Chì rất hiệu quả.
Đánh giá hiệu quả hấp thu sinh học của cây lục bình
Nghiên cứu này thực hiện một nỗ lực để khắc phục sự tồn dư của kim loại đồng trong ao nuôi bằng phương pháp quang hợp của một loài thủy sinh thượng đẳng, đó là cây lục bình (Eichhornia crassipes) trong ao nuôi cá trê Clarias batrachus. Sau đó hiệu quả hấp thu sinh học kim loại đồng sẽ được các nhà khoa học đánh giá trong môi trường nước và trong cơ thể cá.
Loài cây lục bình hay bèo tây (E. Crassipes) được tiếp xúc với các nồng độ đồng khác nhau: 0, 5, 10, 15 và 20mg/L trong dung dịch tương tự môi trường ao nuôi cá trong 21 ngày. Mỗi nghiệm thức có tất cả ba lần lặp lại.
Ảnh: .wikimedia.org
Kết quả phân tích cho thấy sự hấp thu cao nhất của 2168μg/g đồng là tiếp xúc với 10mg/L, và hiệu quả ở gốc và rễ để chuyển vị lá đã được nhìn thấy cho 5-10 mg Cu/L. Đối với những liều này, đã có 55-57% hàm lượng đồng được giảm xuống từ vùng nước thử nghiệm. Cho thấy khi hàm lượng đồng dư lượng trong môi trường nằm trong khoảng 5 – 10 mg/L thì cây lục bình có thể được sử dụng chúng một cách hiệu quả.
Các nhà khoa học đã đánh giá phản ứng hình thái, sinh lý và sinh hóa của loài thực vật này đối với kim loại đồng để đánh giá khả năng hấp thu sinh học của nó. Đối với chỉ tiêu sinh khối, cá được nuôi trong 7 ngày ở hàm lượng đồng trong nước là 5 và 10mg/L. Sự tích tụ của đồng trong cơ thể theo thứ tự: thận> gan> mang> cơ đã được quan qua sát thấy. Cơ thịt cá tích lũy 21,8-27,0μg Cu/gam sau 7 ngày khi không có cây lục bình. tuy nhiên, đối với sự có mặt của cây lục bình (E. Crassipes) thì dư lượng này được khắc phục đáng kể, chỉ còn 8,2-10,9μg Cu/gam, nằm trong mức an toàn của đồng trong thịt cá có thể sử dụng làm thực phẩm.
Việc giảm hàm lượng đồng trong cơ thịt cá cũng dẫn đến tăng cường malondialdehyde, superoxide dismutase, catalase và peroxidase nồng độ trong các mô. Đây là các chỉ tiêu sinh hóa miễn dịch tích cực cho sức khỏe của của cá.
Kết luận
Mặc dù nồng độ của kim loại động trong các nhóm có sử dụng cây lục bình để hấp thu sinh học không đạt được mức độ tối đa để đảm bảo không ảnh hưởng đến sức khẻo của cá, nhưng sự phục hồi đáng kể trong các thông số này đã được quan sát thấy. Và các kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra hiệu quả của quá trình tạo hấp thu sinh học kim loại đồng bằng cây lục bình (E. Crassipes).
Bài báo đã cung cấp những số liệu thiết thực và hiệu quả có thể chấp nhận nhằm làm giải sự lưu tồn quá cao của kim loại nặng trong ao nuôi cũng như các hệ thống sông hồ bằng loài cây vô cùng phổ biến và gần gũi tại Việt Nam. Đây là nghiên cứu quý giá góp phần giúp người nuôi có thêm cây sử dụng trong xử lý sinh học nhằm cải tạo chất lượng nước ao.