Ngũ cốc chưng cất khô có thể thay thế thức ăn cho tôm
Việc thay thế bột cá (FM) bằng các nguồn protein thực vật (PP) thay thế ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình trao đổi chất và sức khỏe miễn dịch ở động vật thủy sản. Do đó, điều cần thiết là phải kiểm tra tình trạng sức khỏe của tôm sau khi được cho ăn bằng nguồn protein thay thế.
DDGS là một trong những sản phẩm phụ chưa được sử dụng từ ngành công nghiệp rượu và có thể thay thế FM trong thức ăn cho tôm. Chúng được thu nhận từ các dẫn xuất của quá trình lên men ngũ cốc và sau quá trình chưng cất để sản xuất rượu.
Trong một thử nghiệm thức ăn gần đây được công bố trên tạp chí Aquaculture, các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng ngũ cốc chưng cất khô có thể được sử dụng để thay thế bột cá cho tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương
Tôm có trọng lượng ban đầu 0,23 ± 0,00 g được bố trí vào 7 nghiệm thức với khẩu phần ăn chứa khoảng 32,21% protein thô và 7,50% lipid thô được bổ sung với các nồng độ DDGS (0%); chế độ ăn đối chứng, D2 (2%), D4 (4%), D6 (6%), D8 (8%) , D12 (12%) và D16 (16%) trong vòng 56 ngày. Kết thúc thí nghiệm xác định tỷ lệ tăng trọng (WGR), tốc độ tăng trưởng cụ thể (SGR), tỷ lệ trao đổi thức ăn (FCR) và tỷ lệ sống. Sau đó, tôm được chọn ngẫu nhiên để thử thách bằng cách sử dụng Vibrio parahaemolyticus với nồng độ vi khuẩn là 10 7 CFU/mL ở thể tích 0,2 mL.
Kết quả sau tám tuần nuôi tôm bằng chế độ ăn DDGS, kết quả về năng suất cho thấy sự cải thiện trong chế độ ăn kiêng DDGS (D8) của tôm về hiệu suất tăng trưởng, bao gồm trọng lượng cuối cùng 13,00 ± 0,68 g và và tỷ lệ tăng trọng là 64% trong khi đó nghiệm thức đối chứng là 12,19 ± 0,63g à tỷ lệ tăng trọng là 5995,00%. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trọng của D12 và D16 kém hơn đáng kể so với D16 chỉ đạt 9,93 ± 0,35g, tỷ lệ tăng trọng là 4863,33%.
Ngoài ra, FCR thấp đáng kể ở tôm cho ăn D6 và D8 là 1,61 so với tôm ăn chế độ đối chứng D0 là 1,95.
Tỷ lệ sống của tôm dao động từ 76,6% –92,50% và cao nhất ở nghiệm thức D6 92,50% kế đến là nghiệm thức D8 86,67 %.
Các chỉ số sinh hóa huyết thanh và các hoạt động chống oxy hóa ở tôm thẻ chân trắng cho thấy sự khác biệt giữa nghiệm thức thí nghiệm và nghiệm thức đối chứng. Các chỉ số sinh hóa huyết thanh bao gồm AST, ALT và HDL-C giảm khi tăng lượng DDGS trong chế độ ăn của tôm so với chế độ ăn đối chứng. .
Enzyme chống oxy hóa bao gồm: T-AOC, SOD, giúp bảo vệ vật chủ khỏi các tác nhân gây stress cho thấy tăng lên đáng kể trong gan tụy ở các nghiệm thức bổ sung và D8 có giá trị lớn nhất là 0,62 mol/g. Hoạt động MDA trong gan tụy của tôm giảm khi tăng lượng DDGS vào chế độ ăn của tôm. Điều này có thể thấy rằng hệ thống chống oxy hóa của tôm được tăng cường nhờ sử dụng DDGS.
Tôm ăn theo khẩu phần DDGS ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động trypsin và amylase cao nhất ở nghiệm thức D8. Trong khi đó hoạt tính lipase cao nhất ở nghiệm thức D6.