Nhận định nguyên nhân làm tôm sú nuôi chậm lớn
Kết quả giám sát bệnh tôm nuôi định kỳ hàng tháng của Chi cục Thú y Kiên Giang và thông tin từ người nuôi tôm cho thấy: trong các vụ nuôi tôm gần đây tình trạng tôm chậm lớn được ghi nhận ở nhiều ao nuôi kể cả nuôi công nghiệp, bán công nghiệp và quảng canh cải tiến.
Thông thường tôm sú nuôi khoảng 4 tháng là thu hoạch, tuy nhiên nếu tôm bị bệnh còi cọc, chậm lớn thì thời gian nuôi có khi kéo dài đến 5 tháng nhưng kích cỡ tôm thu hoạch cũng khoảng 42-50 con/kg. Hậu quả là phải kéo dài thời gian nuôi, tăng hệ số thức ăn, tăng chi phí sản suất, giảm năng suất và hiệu quả kinh tế thậm chí thua lỗ. Việc tôm sú nuôi bị chậm lớn có thể do những khả năng sau:
Thứ nhất: tôm giống bị nhiễm bệnh còi do MBV (Monodon Baculovirus) hoặc HPV (Hepatopancreatic parvovirus) hoặc bị Hội chứng chậm lớn trên tôm sú LSNV (Laem singh virus ). Bệnh do MBV và HPV đã được đề cập nhiều, riêng LSNV là tương đối mới, bệnh này đã xuất hiện và được ghi nhận tại các nước Ấn Độ, Thái Lan. Bệnh có khả năng lây lan nhanh, rộng và gây hiện tượng tôm chậm lớn trong suốt quá trình nuôi.
Theo các nhà nghiên cứu, bệnh chậm lớn do LSNV có sự khác biệt với tôm sú bị còi do nhiễm HPV (Hepatopancreatic parvovirus) và MBV (Monodon Baculovirus) bởi các đặc trưng khi tôm nhiễm bệnh LSNV: (1) Màu sắc sậm màu bất thường, (2) tăng cân trung bình mỗi ngày dưới 0.1 g/ngày trong 4 tháng, (3) tạo ra màu vàng sáng bất thường, (4) đốt bụng có dạng thân đốt tre, (5) dễ gãy râu.
Đây có thể là nguyên nhân dẫn đến tôm sú nuôi có biểu hiện chậm lớn nhưng xét nghiệm không phát hiện nhiễm bệnh còi do MBV.
Thứ hai: có thể do việc lạm dụng chất kháng sinh liên tục ở liều cao trong sản xuất, ương gièo để điều trị bệnh nhiễm khuẩn của tôm giống đã làm giảm sức kháng bệnh của tôm khi đưa vào nuôi, giảm khả năng chuyển hóa thức ăn dẫn tới tình trạng tôm chậm lớn, còi cọc làm tăng hệ số sử dụng thức ăn, tăng chi phí. Ngoài ra còn để lại dư lượng kháng sinh trong sản phẩm. Một số loại kháng sinh thường dùng trong sản xuất tôm giống là Chloramphenicol, Trimethoprim, Sulfamethoxazole, Norfloxacin và axit Oxolinic. Có cơ sở còn dùng kháng sinh của người cho tôm như Ampiciline, Tetraciline, lâu dần làm cho các vi khuẩn gây bệnh bị kháng thuốc, nên phải dùng liều cao hơn hoặc kháng sinh khác thay thế.
Thứ ba: có thể do cơ sở sản xuất sử dụng tôm giống bố, mẹ không đạt chất lượng, lạm dụng quá mức sức sinh sản tôm mẹ.
Do nhu cầu tôm giống phục vụ cho nuôi tôm ngày càng lớn trong khi nguồn lợi tôm giống bố mẹ khai thác ngoài tự nhiên giảm đáng kể, rất khó để nuôi thành thục tôm bố mẹ dẫn đến sự khan hiếm nguồn tôm bố mẹ, đẩy giá lên cao nên cơ sở sản xuất sử dụng tôm giống bố, mẹ không đạt chất lượng, lạm dụng quá mức sức sinh sản của chúng để giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
Để có được tôm giống chất lượng, thường tôm mẹ đưa vào sinh sản phải có trọng lượng từ 180-200g/con, được khai thác ở các vùng biển sâu ngoài khơi và chỉ nên cho sinh sản không quá 3 lần/tôm mẹ. Tuy nhiên, trong thực tế yêu cầu này rất ít khi được thỏa mãn đối với những cơ sở sản xuất tôm giống theo mùa vụ, cơ sở nhỏ lẻ, không có thương hiệu trên thị trường. Họ thường dùng tôm mẹ khoảng 150g/con hoặc ép cho sinh sản nhiều lần bằng việc sử dụng các biện pháp kích thích, kháng sinh,…làm cho tôm giống PL có sức tăng trưởng kém, khả năng miễn dịch thấp như đã đề cập ở trên khi đưa vào ao nuôi.
Để có được tôm giống tốt phục vụ cho người nuôi, việc sớm tổ chức triển khai Đề án sản xuất giống thủy sản đã được UBND tỉnh phê duyệt sẽ đáp ứng cơ bản nhu cầu tôm giống tại địa phương. Ngoài ra công tác kiểm dịch tôm giống tại nới xuất phát phải được thực hiện chặt chẽ, đúng trình tự quy định, nhất thiết phải xét nghiệm các bệnh nguy hiểm trên tôm nuôi, kể cả xét nghiệm một số kháng sinh thường dùng trong sản xuất giống, không cho lưu thông tôm giống không đạt yêu cầu vệ sinh thú y, tiêu hủy tôm bệnh, sẵn sàng công khai những cơ sở cố tình vi phạm, vi phạm nhiều lần, cơ sở sản xuất, kinh doanh giống không đảm bảo chất lượng để người dân biết.
Điều quan trọng là trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh tôm giống trong quá trình sản xuất của mình phải chấp hành đúng quy định pháp luật về sử dụng thuốc, hóa chất, tuyệt đối không sử dụng kháng sinh mà áp dụng quy trình vi sinh để sản xuất, sử dụng tôm giống bố mẹ đạt chất lượng, không cho sinh sản quá 03 lần/tôm mẹ, trường hợp sử dụng đàn bố mẹ nhập khẩu phải có chứng nhận nguồn gốc và chứng nhận kiểm dịch đầy đủ, khuyến khích các cơ sở có điều kiện nhập công nghệ hoặc hợp tác với các công ty nước ngoài sản xuất tôm bố mẹ đảm bảo chất lượng di truyền, sạch bệnh, kháng bệnh tại Việt Nam. Người nuôi tôm cần xét nghiệm kỹ các bệnh tôm giống trước khi thả nuôi, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật trong suốt quá trình nuôi.