Nông dân nuôi tôm nước lợ cần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
Tiền Giang là tỉnh ven biển có diện tích thả nuôi tôm nước lợ hàng năm khoảng 5.000 ha, đem lại sinh kế cho khoảng 3.000 hộ dân và được xem là ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Tuy nhiên, quá trình phát triển nghề nuôi tôm nước lợ của tỉnh cho thấy còn nhiều hạn chế cần phải giải quyết, nhất là ý thức bảo vệ môi trường của người dân khu vực nuôi tôm nước lợ.
Tình trạng xử lý môi trường
Theo tài liệu nghiên cứu khoa học, nuôi tôm nước lợ là một trong những nghề gây nhiều tác động xấu đến môi trường nếu người dân không thực hiện triệt để các biện pháp xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường theo quy định. Trong quá trình nạo vét bùn đáy để cải tạo ao nuôi tôm hàng năm, chất thải với vô số các loại hóa chất, kháng sinh còn tồn dư trong đất bị thải trực tiếp ra môi trường. Khi xảy ra dịch bệnh gây chết tôm, nước ao tôm với các mầm bệnh nguy hiểm cũng được thải trực tiếp vào môi trường gây khó khăn cho các hộ nuôi khác khi lấy phải nguồn nước nhiễm bệnh trước vụ nuôi mới. Vòng lẩn quẩn của mầm bệnh trong môi trường vào ao nuôi, rồi mầm bệnh từ ao nuôi thải ra môi trường, rồi mầm bệnh lại vào ao nuôi khác khiến người nuôi tôm ngày càng khó khăn.
Qua quá trình sản xuất cho thấy, việc người nuôi tôm có ý thức kém trong quá trình xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất. Cụ thể, dịch bệnh trên tôm ngày càng tăng, tình trạng tôm chết hàng loạt xuất hiện ở nhiều địa phương và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Nguyên nhân là do trong quá trình cải tạo ao nuôi tôm, 100% số hộ sử dụng hóa chất để cải tạo ao với các loại hóa chất thông dụng như: Vôi, Iodine, Chlorine, Saponin... Một số trường hợp nông dân sử dụng cả thuốc trừ sâu để diệt giáp xác trong quá trình cải tạo ao nuôi, nhất là các hộ nuôi tôm bị thua lỗ, không còn vốn đầu tư cho khâu cải tạo, xử lý ao nuôi theo đúng quy trình kỹ thuật mà cơ quan chức năng đã khuyến cáo.
Việc sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh cấm trong nuôi tôm gây mất an toàn thực phẩm và dẫn đến suy thoái môi trường ao nuôi tôm. Kết quả khảo sát cho thấy gần như 100% các hộ nuôi tôm sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh với mục đích giúp tôm phát triển tốt, còn việc các loại hóa chất, kháng sinh đó có tác động đến môi trường như thế nào, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng ra sao thì không ai quan tâm. Ngoài ra, còn có nhiều người dân sử dụng cả những loại kháng sinh nằm trong danh mục cấm sử dụng như Enrofloxacin.
Ý thức của người dân là quan trọng
Hiện nay, quy định về bảo vệ môi trường và các hành vi nghiêm cấm gây ô nhiễm môi trường trong thủy sản được quy định rất rõ ràng và có mức xử lý khá nặng. Tuy nhiên, để môi trường vùng nuôi tôm được bảo vệ tốt, yếu tố quyết định vẫn là ý thức của từng người nuôi tôm.
Cụ thể, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho hoạt động nuôi tôm nước lợ phải được xây dựng đồng bộ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hệ thống kênh mương cấp nước và thoát nước phải riêng biệt để hạn chế lây lan mầm bệnh. Trong quá trình nuôi tôm nước lợ, người dân phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định phòng chống dịch bệnh cho động vật thủy sản nuôi... Đối với các mô hình nuôi thủy sản kết hợp (tôm - lúa, lúa - tôm) và các mô hình sản xuất, canh tác bền vững, thân thiện với môi trường phải bố trí đúng tỷ lệ diện tích đất, nước mặn, vật nuôi, cây trồng theo đúng quy định và hướng dẫn của ngành Nông nghiệp.
Hoạt động sên vét bùn cải tạo ao nuôi phải tiến hành đúng kỹ thuật theo hướng dẫn của ngành chức năng, đúng lịch thời vụ, lịch điều tiết nước của tỉnh... Tùy thuộc vào điều kiện quy mô và loại hình hoạt động mà sử dụng các biện pháp xử lý giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vệ sinh phòng dịch theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, vệ sinh thú y. Hệ thống cấp nước, thoát nước thải phải luôn thông thoáng, được sên vét cải tạo thường xuyên đảm bảo không để bồi lắng, tồn đọng gây tác động xấu đến môi trường và hoạt động sản xuất, canh tác của khu vực.
Nước thải phải được thu gom và xử lý bằng biện pháp, công nghệ hợp lý không để rò rỉ, phát tán vi sinh vật, mầm bệnh gây ô nhiễm môi trường; hệ thống xử lý nước thải phải được vận hành thường xuyên, nước thải sau khi được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp trước khi thải vào nguồn tiếp nhập. Chất thải phát sinh trong nuôi trồng thủy sản phải được thu gom, xử lý triệt để bằng các biện pháp thích hợp; đối với lượng bùn thải và xác động vật nuôi phải được thu gom xử lý triệt để theo quy định của pháp luật về chất thải rắn thông thường và chất thải nguy hại, đảm bảo không để phát tán mầm bệnh, vi sinh vật làm ảnh hưởng đến hoạt động, sản xuất canh tác trong khu vực.
Quá trình xử lý chất thải trong ao nuôi tôm chủ yếu là những thức ăn thừa, phân tôm thải ra. Do đó, người nuôi nên áp dụng các mô hình xử lý chất thải trong ao nuôi tôm hoặc nên chừa diện tích để xử lý ao lắng, ao lọc, thả cá rô phi vào để cá xử lý các chất thải trong quá trình nuôi, cũng có thể xử lý bằng men vi sinh để phân hủy các chất thải. Cần thường xuyên kiểm tra bờ mương, bờ ao chứa nước thải để kịp thời xử lý các trường hợp thẩm lậu. Nạo vét bùn đáy ao đến nơi xử lý riêng biệt và kiểm soát để mầm bệnh không lây nhiễm ra môi trường xung quanh.
Cần xử lý nước thải trước khi thải ra môi trường, đặc biệt khi có dịch bệnh xảy ra. Tuyệt đối không xả thẳng ra môi trường bên ngoài, nước thải phải được chứa ở kênh thải và xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra ngoài. Nước trong kênh thải được xử lý lắng ít nhất 1 tuần. Chất thải rắn (rác, tôm chết...) trong quá trình nuôi được thu dọn, và để đúng nơi quy định, rác thải của các ao bị bệnh cần đốt bỏ, tôm chết do bị bệnh và giáp xác cần được thu gom triệt để và tiêu hủy đúng nơi quy định, không vứt xác động, thực vật chết xuống hệ thống nuôi.