TIN THỦY SẢN

Sức mạnh kinh tế tiềm ẩn của cá lăng nha

Cá lăng nha là một trong những loài cá có giá trị dinh dưỡng cao. Ảnh: diapteron.co.uk Nhất Linh

Cá lăng nha là một trong những loài cá có giá trị dinh dưỡng cao. Những năm gần đây, cá lăng nha trở thành đối tượng phổ biển được nhiều hộ nuôi trồng để mắt đến do có triển vọng mang lại giá trị kinh tế cao. Hiện nay, loài cá này đang được nhân giống và sản xuất với quy mô lớn.

Đặc điểm về cá lăng nha 

Cá lăng nha hay còn được gọi bằng cái tên cá lăng đuôi đỏ, có tên khoa học là Hemibagrus wyckioides (một loài cá trong họ cá lăng – Bagridae). Chúng phân bố rộng ở Ấn Độ Dương và các nước Đông Nam Á. Là loài cá nhiệt đới phân bố ở châu Á, đặc biệt là các nước ở lưu vực sông Mê Kông. Ở Việt Nam, chúng phân bố rộng rãi ở các thủy vực nước ngọt và nước lợ miền Tây, các sông như sông Đồng Nai,.. 

Cá lăng nha thuộc loại cá da trơn, có hình dáng gần giống cá trê với thân mình thuôn dài về hướng đuôi. Miệng rộng, răng thuộc loài răng lá mía, đầu có hình nón, đỉnh đầu nhám, hơi dẹp đứng. Mắt nằm gần đỉnh đầu. Màng mang tách khỏi eo mang và phần lớn tách rời nhau. Vây lưng và vây ngực mang gai cứng có răng cưa ở mặt sau. Thân màu xám, phần lưng thẫm hơn phần bụng.Vây bụng màu vàng nhạt, các vây khác màu đỏ nhạt. Cá lăng nha có kích thước lớn nhất trong tất cả các loài cá thuộc họ cá lăng. Loài cá này có tập tính sống thành từng đàn ở tầng đáy nơi có nước chảy nhẹ, nếu nuôi cá trong ao thì chúng thích sống ở nơi có nhiều giá thể để trú ẩn và hoạt động bắt mồi về đêm.  

Cá lăng nha có kích thước lớn nhất trong tất cả các loài cá thuộc họ cá lăng. Ảnh: fishbase.se

Là loài cá ăn tạp thiên về động vật, thường chui rúc vào các hốc cây để tìm thức ăn. Trong tự nhiên cá thích ăn các loài cá nhỏ và giáp xác, trong quá trình nuôi có thể tập cho cá ăn thức ăn nổi. Vào năm đầu nuôi, cá có xu hướng phát triển chậm hơn và bắt đầu tăng trưởng mạnh vào năm tiếp theo, cá 1 năm tuổi đạt trọng lượng 0,7 – 1 kg, 2 năm tuổi đạt 1,5 – 3 kg (tăng hẳn 1,5 kg so với năm thứ nhất). Thời điểm sinh sản chính của cá vào khoảng tháng 4 đến tháng 10 hàng năm, 1 kg cá cái có thể sản xuất được 8.000 – 10.000 cá con 6 ngày tuổi. 

Điều kiện môi trường nuôi phù hợp 

Để nuôi cá lăng nha đạt hiệu quả, có thể áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh trong ao hoặc trong bè. Tuy nhiên, nuôi trong bè cá lớn nhanh hơn. 

Ao nuôi rộng 1.000 m2 trở lên, độ sâu khoảng 1,5 - 2 m. Độ che phủ mặt nước không quá 30%. Lớp bùn dày 10 - 15 cm, chủ động trong cấp thoát nước. Nuôi bè cần có diện tích 10m3 trở lên, đặt ở nơi có dòng chảy vừa phải. Độ pH của ao tốt nhất là 6,5 - 7,5, cá sinh trưởng tốt ở nước ngọt, nước lợ có độ mặn 5 - 7 %. Do cá không có cơ quan hô hấp phụ nên đòi hỏi hàm lượng oxy hòa tan phải cao (phải lớn hơn 3 mg/l), độ trong khoảng 30 – 350 cm, hàm lượng NH3 nhỏ hơn 0,3 mg/l.  Trong điều kiện nuôi bè, thường xuyên theo dõi hoạt động ăn mồi của cá, nhất là vào lúc nước đứng, nước đổ để xử lý kịp thời. 

Nuôi cá lăng nha trong lồng bè. Ảnh: baoangiang.com.vn

Tiềm năng kinh tế 

Do giá trị thương phẩm cao và dễ tiêu thụ, cá lăng nha đã đem lại thu nhập cho người dân miền Tây. Cá lăng nha thích hợp với khu vực ĐBSCL, nơi được hưởng nguồn nước ngọt của sông Tiền và sông Hậu. Trước đây loài cá này chủ yếu được đánh bắt, khai thác từ tự nhiên. Tuy nhiên, nhờ những tiến bộ về kỹ thuật khoa học đã cho sinh sản nhân tạo giống thành công và tiến hành nuôi thương phẩm, đã mang đến nhiều triển vọng trong việc mở rộng mô hình nuôi cá lăng nha. Nhờ đó mà hiện nay nghề nuôi cá lăng nha đã và đang phát triển khá phổ biến ở các vùng nước ngọt và lợ nhẹ ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và khu vực ĐBSCL. 

Theo đánh giá, cá lăng nha là loài cá dễ nuôi, ít bị bệnh dịch lại không đòi hỏi kỹ thuật nuôi cao nên nhà nhà đều có thể triển khai nuôi trồng một cách dễ dàng. Thức ăn là các loại cá sông, cá biển nên rất dễ tìm. Đặc biệt, cá được nuôi trong lồng bè nên công tác quản lí chăm sóc sẽ tốt hơn, cá tăng trưởng nhanh. Thịt cá trắng, dai, ngọt, không có xương dăm và có hương vị đặc trưng nên được thị trường săn đón. 

Bên cạnh đó, thách thức đặt ra cho nghề này cũng khiến nhiều hộ nuôi gặp khó khăn. Việc phát triển mô hình cá lăng nha mang đến rủi ro rất cao, không thích hợp cho những hộ nuôi có vốn nhỏ hoặc không chủ động được nguồn vốn. Ngoài ra, chất lượng con giống chưa tốt làm giảm tỷ lệ sống, cá chậm lớn, kéo dài thời gian nuôi làm gia tăng rủi ro khi nuôi. Cần phải có những chính sách hỗ trợ vốn, con giống, quy hoạch vùng nuôi hợp lý,..để các hộ tâm có thể yên tâm trong việc phát triển ngành nghề có nhiều tiềm năng này. 

Nhất Linh