TIN THỦY SẢN

Tăng cường chăm sóc tôm nuôi

Cải tạo ao nuôi, sên vét kỹ bờ bao trước khi thả nuôi NGUYỄN NGỌC TOẢN

Tình hình thời tiết nắng nóng kéo dài, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn đã gây bất lợi cho sức khỏe của tôm nuôi. Để vụ nuôi tôm nước lợ 2013 đạt hiệu quả, nông dân cần tuân thủ chặt chẽ các biện pháp kỹ thuật, tăng cường chăm sóc để tôm nuôi phát triển ổn định.

Mô hình tôm-lúa (luân canh 1 vụ tôm, 1 vụ lúa) được đánh giá là đem lại hiệu quả hơn (cả về kinh tế lẫn môi trường sinh thái) so với độc canh cây lúa hoặc chuyên canh tôm. Đặc biệt, mô hình này còn thích hợp với bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay đối với vùng ven biển.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình hình thời tiết và dịch bệnh trên tôm nuôi diễn biến phức tạp, gây thiệt hại làm giảm năng suất và sản lượng tôm nuôi. Năm 2012, diện tích tôm nuôi bị thiệt hại tại các huyện vùng U Minh Thượng và Gò Quao là 7.653,9 ha (chiếm 9,7% diện tích nuôi). Trong đó, thiệt hại do các yếu tố môi trường là 7.341,9 ha và mức độ thiệt hại từ 20 - 80%.

Nguyên nhân chủ yếu là do nông dân thả nuôi không theo lịch thời vụ khuyến cáo, thả tôm giống nhiều đợt trong năm làm tích tụ mầm bệnh, chất lượng tôm giống chưa đảm bảo, kỹ thuật nuôi, chăm sóc quản lý và bố trí ao nuôi chưa tốt…

Để vụ nuôi tôm-lúa năm 2013 đạt hiệu quả cao, nông dân cần thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật trong quản lý chất lượng nước và sức khỏe tôm nuôi. Về lịch thời vụ, không nên thả giống quá sớm hay quá muộn theo lịch ngành chuyên môn khuyến cáo, tuyệt đối không thả nối nhiều đợt trong một vụ nuôi.

Ruộng lúa sau khi thu xong, cần phải có thời gian từ 15 - 30 ngày để cải tạo, sên vét mương, gia cố bờ bao chắc chắn để giữ nước tốt trong quá trình nuôi, lấy nước tốt vào ruộng (cao khoảng 60 - 80 cm), vệ sinh diệt tạp, mầm bệnh kỹ lưỡng, gây màu nước trước khi thả nuôi. Sau khi đã chuẩn bị tốt môi trường, nên thả giống (con giống cỡ PL 15) một đợt cho dứt điểm, cần theo dõi để xác định tỷ lệ hao hụt và có giải pháp thả bù trong vòng 3 - 5 ngày để đảm bảo mật độ nuôi.

Mật độ thả nuôi tùy theo năng lực và trình độ chăm sóc người nuôi, trung bình từ 3 - 6 con/m2. Nên chọn mua con giống có nguồn gốc rõ ràng, sạch bệnh để thả nuôi, tốt nhất nên ương tôm trong ao vèo khoảng 15 đế 25 ngày trước khi thả ra ruộng nhằm nâng cao tỷ lệ sống. Ở giai đoạn ương tôm, nên dùng thức ăn có chất lượng cao để cho tôm ăn nhằm để giúp tôm tăng trưởng nhanh trong giai đoạn đầu.

Trong tuần thứ nhất, dùng thức ăn công nghiệp khoảng 150 g cho 10.000 tôm ăn mỗi ngày, từ tuần thứ 2 trở đi thì lượng thức ăn tăng gấp 1,5 lần, mỗi ngày cho tôm ăn 4 lần (vào khoảng 6, 10, 16 và 20 giờ). Ngoài ra cũng có thể dùng thức ăn tự chế dược hấp chín để cho ăn như tép (xay nhuyễn) hay cá (bỏ ruột và xương) khoảng 200g phối hợp với 5 quả trứng gà để cho 10.000 con tôm ăn/ngày.

Trong giai đoạn nuôi thịt (thả ra ruộng nuôi), cho tôm ăn thường xuyên hay không thường xuyên, tùy thuộc vào mật độ nuôi. Nếu thả nuôi mật độ thấp thưa thì không nhất thiết phải cho ăn thường xuyên, chỉ cần cho ăn bổ sung và kết hợp bón phân để gây thức ăn tự nhiên cho tôm trong khoảng 2 tháng đầu.

Từ tháng thứ 3 trở đi, cần cho tôm ăn thức ăn viên với liều lượng khoảng 3% so với lượng tôm trong ruộng, mỗi ngày cho ăn 2 lần. Trong quá trình cho tôm ăn, cần thường xuyên phối trộn vitamine C, men tiêu hóa vào thức ăn cho tôm để tăng sức đề kháng cho tôm, ngăn ngừa bệnh đường ruột trong điều kiện thời tiết bất ổn.

Nhiệt độ thích hợp cho tôm sú dao động ở mức 26-30  độ C, khi nhiệt độ dao động lớn, nước quá nóng hay quá lạnh tôm sẽ bị sốc, giảm ăn, chậm lớn và dễ nhiễm bệnh. Mỗi hộ nuôi tôm, nên trang bị nhiệt kế để đo nhiệt độ nước 2 lần trong ngày (6 giờ sáng và 2 giờ chiều), khi đo không lấy nhiệt kế ra khỏi nước để đọc.

Để hạn chế sự chênh lệc nhiệt độ giữa ngày và đêm, ruộng nuôi cần phải duy trì mức nước cao, độ trong ổn định (35 - 40 cm), màu nước tốt (xanh nhạt hay vàng nâu). Độ pH nước thích hợp cho tôm là 7,5 - 8,5, sự chênh lệch giữa sáng và chiều không quá 0,5, cần đo pH thường xuyên để khắc phục khi pH quá cao hay quá thấp.

Trong quá trình nuôi, khoảng 10 - 15 ngày/ lần nên sử dụng chế phẩm sinh học xử lý nước để hạn chế trình trạng pH nước tăng cao. Bón vôi xung quanh bờ khi có mưa và bón vôi CaCO3 khi pH nước thấp để tăng pH lên 7,5 - 8,5 và tăng độ kiềm.

Ruộng nuôi chưa được cải tạo kỹ, gốc rạ không được xử lý loại bớt, hay ruộng nuôi có mực nước thấp và quá trong thì rong đá, rong mền, rong nhớt, rong bún… sẽ phát triển, pH nước biến động, oxy hòa tan có thể bị cạn kiện vào sáng sớm gây nguy hiểm cho tôm nuôi. Trong quá trình chăm sóc cần có giải pháp phòng ngừa ngay từ đầu, xử lý kịp thời khi rong mới xuất hiện bằng cách thu gom vớt ra khỏi ruộng nuôi, tránh để rong phát triển gây ô nhiễm nước.

NGUYỄN NGỌC TOẢN http://nongnghiep.vn