TIN THỦY SẢN

Thách thức nuôi tôm thâm canh nông hộ

Thu hoạch tôm thẻ chân trắng nuôi siêu thâm canh 2 giai đoạn. Hình NN TH

Những năm qua, ngành nuôi tôm nước ta đã phát triển phương thức nuôi tôm thâm canh ở nông hộ nên tăng được sản lượng, mở ra khả năng tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.

Tôm siêu thâm canh

Nuôi thâm canh thả tôm giống mật độ 50 - 80 con/m2, một năm nuôi 2 vụ, năng suất 30 - 50 tấn/ha. Nuôi siêu thâm canh, thả giống mật độ 200 -230 con/m2, một năm nuôi 3 vụ cho năng suất 100 - 120 tấn/ha.

Tổng cục Thủy sản cho biết, tôm thẻ chân trắng nuôi siêu thâm canh, thâm canh và bán thâm canh chiếm 99% diện tích nuôi, chỉ có 1% nuôi quảng canh. Trái lại, tôm sú nuôi quảng canh cải tiến là chủ yếu, chiếm 98%, còn nuôi thâm canh và bán thâm canh chỉ 2%.

Nhiều hộ nông dân nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh đạt hiệu quả cao. Ông Nguyễn Hữu Chánh ở thị trấn Cái Đôi Vàm (Phú Tân, Cà Mau) có ao rộng 5.400m2, nuôi 103 ngày, tôm lớn đạt 60 con/kg, thu hoạch được 16 tấn, tổng doanh thu 1,9 tỷ đồng, lợi nhuận hơn 900 triệu đồng. Ông Trần Văn Khen ở xã Tân Hưng (Cái Nước, Cà Mau) có ao nuôi rộng 1.800m2, sau 85 ngày tôm đạt 52 con/kg, thu hoạch 9 tấn, tổng doanh thu 1,2 tỷ đồng, lợi nhuận hơn 600 triệu đồng. Tỉnh Bạc Liêu có đại lý Phú Xuân ở xã Tân Thạnh (thị xã Giá Rai) nuôi ao rộng 2.200m2, một vụ lời 490 triệu đồng. Tỉnh Sóc Trăng có HTX Hưng Phú ở xã An Thạnh 3 (Cù Lao Dung) nuôi ao rộng 1.200m2, sau một vụ lời 220 triệu đồng.

Những hộ trên áp dụng phương thức nuôi tôm siêu thâm canh 2 giai đoạn của Cty TNHH Sản xuất và Thương mại Trúc Anh. Tôm giống được ương nuôi trong ao với quy trình chăm sóc đặc biệt, sau 20 - 25 ngày, khi lớn và cứng cáp mới đưa ra ao nuôi nên hạn chế được tình trạng tôm chết sớm. Quy trình này không sử dụng kháng sinh, hoá chất mà chỉ sử dụng vi sinh, chế phẩm sinh học và tái sử dụng nguồn nước nên đảm bảo an toàn cả con tôm lẫn môi trường.

Quy trình nuôi tôm siêu thâm canh nông hộ của Cty Trúc Anh, năm 2016 đã chuyển giao cho 78 nông hộ và năm nay dự kiến tăng lên 328 nông hộ ở 8 tỉnh ĐBSCL và một số tỉnh phía Bắc. Qua kết quả của 4 tháng đầu năm, Giám đốc Cty Trúc Anh tin tưởng, kế hoạch chuyển giao kỹ thuật năm 2017 sẽ đạt. 

Thách thức và đòi hỏi

Tuy nhiên, nuôi tôm thâm canh và siêu thâm canh quy mô nông hộ cũng đang đứng trước nhiều thách thức. Trong đó, thách thức lớn nhất là liên kết chuỗi giá trị để nâng cao chất lượng. Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nuôi trồng và Khai thác thủy sản bền vững (ICAFIS) của Hội Nghề cá Việt Nam khẳng định, liên kết chặt chẽ chuỗi giá trị là chìa khóa thành công cho nuôi tôm thâm canh quy mô nông hộ.

Những thách thức chính đối với nuôi tôm thâm canh nông hộ mà ICAFIS chỉ ra: Không chủ động tạo được đàn tôm bố mẹ, mà phụ thuộc hoàn toàn nhập khẩu đối với tôm chân trắng. Lại chưa có giải pháp an toàn sinh học triệt để ở các trại giống, cũng như các vùng nuôi để ngăn ngừa, giảm rủi ro và tiến tới loại bỏ dịch bệnh, vì vậy dịch bệnh xảy ra liên tục (hàng năm có khoảng 15 - 20% diện tích bị thiệt hại bởi dịch bệnh). Đó là thách thức về khoa học và công nghệ.

Còn có thách thức trong quản lý như các biện pháp quản lý chất lượng từ giống đến sản phẩm tôm tỏ ra chưa hiệu quả. Đây là thách thức rất lớn, ảnh hưởng mạnh tới truy xuất nguồn gốc và chất lượng sản phẩm. Quản lý môi trường, giám sát và cảnh báo dịch bệnh cũng chưa chuyên nghiệp, hiệu quả và thiếu những biện pháp cần thiết để giảm tác hại đối với sản xuất.

Nhưng thách thức lớn nhất là trong tổ chức sản xuất. Bởi mô hình cũ - kinh tế hộ gia đình nhỏ lẻ không còn động lực thúc đẩy sản xuất trong bối cảnh thị trường thế giới đã thay đổi. Sản phẩm tôm chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu (từ 80 - 90%) nhưng còn khó truy xuất nguồn gốc, không tạo được sản phẩm đồng đều. Từ đó, chi phí trong sản xuất tăng cao, khó cạnh tranh trên thị trường. Giá thành tôm của Việt Nam thường cao hơn các nước Thái Lan, Ấn Độ, Ecuador từ 10 - 20%, nên nhập khẩu tôm từ Equador, Ấn Độ trong mấy năm vừa qua đã tăng.

Để hạn chế tiến tới khắc phục các thách thức, đưa ngành sản xuất tôm phát triển bền vững, phải củng cố mối liên kết chuỗi giá trị và xây dựng cơ chế phối hợp giữa các thành viên trong chuỗi. Một số mô hình chuỗi trong thực tế đã giảm chi phí sản xuất tới 15%.

“Nhưng đều là những mô hình rất mới, đòi hỏi có các chính sách mới hoặc cần điều chỉnh chính sách đã ban hành phù hợp với thực tiễn phát triển của sản xuất để hỗ trợ phát triển. Đặc biệt các chính sách về tài chính, vay vốn, các hỗ trợ pháp lý trong tổ chức sản xuất”, đại diện ICAFIS nhấn mạnh.

TH Nông NghiệpVN