Thu nhập ổn định nhờ mô hình nuôi lươn khép kín
Nguyễn Thanh Tùng đã mạnh dạn đầu tư nuôi lươn theo quy trình khép kín từ sản xuất con giống, sản xuất trùn quế làm thức ăn đến nuôi lươn thương phẩm. Với mô hình này mỗi năm mang lại thu nhập cho gia đình anh khoảng 700 triệu đồng.
Anh Tùng sinh năm 1979 tại tỉnh Trà Vinh với điều kiện sản xuất khó khăn, thu nhập bấp bênh. Anh luôn trăn trở tìm hướng đi phù hợp với khả năng của bản thân để ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu. Sau khi tìm hiểu thị trường, thấy giá lươn thịt luôn ở mức cao và ổn định, năm 2015, anh Tùng đến huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh khởi sự nuôi lươn cùng vài người bạn. Sau khi xây bể, anh lặn lội đến Cam-pu-chia tìm mua con giống về thả nuôi. Do chưa nắm được yêu cầu kỹ thuật về chọn giống như kích thước, màu sắc, cũng như các yếu tố môi trường, điều kiện thổ nhưỡng…đàn lươn anh nuôi phát triển không đều, tăng trưởng chậm, tỷ lệ sống thấp. Sau đợt nuôi đó không những anh bị lỗ vốn mà lỗ cả công chăm sóc hơn 10 tháng nuôi ròng rã. Với chút vốn ít ỏi còn lại anh đến Vũng Tàu lập nghiệp. Những ngày tháng sống nơi đây bạn bè khuyên anh nên tiếp tục theo đuổi con đường nuôi lươn. Với chút kinh nghiệm trong tay cùng niềm đam mê anh quyết định đầu tư trang trại nuôi lươn tại xã Phước Hội. Sau khi tham khảo báo, đài cùng bạn bè ở miền Tây sông nước anh tìm đến Tiền Giang chọn mua lươn giống. Thật bất ngờ sau 7 tháng nuôi, đàn lươn phát triển tốt, hao hụt không đáng kể đặc biệt là lươn phát triển rất đều cỡ.
Theo quan sát chúng tôi, hiện cơ sở của anh Tùng có 18 bể xi măng để nuôi thương phẩm, mỗi bể có diện tích 5m2, phía trên có mái che, có hệ thống cấp thoát nước, có hệ thống lọc và bể chứa lắng nước trước khi đưa vào sử dụng.
Anh Tùng cho biết để dễ tiêu thụ với số lượng và diện tích bể hiện có, anh sản xuất theo dạng cuốn chiếu chứ không thả nuôi đồng loạt. Trong hệ thống bể nuôi có nhiều cỡ lươn, có loại đang thu tỉa nhưng cũng có loại vừa mới 15 ngày tuổi. Giá thể để làm nơi trú ẩn cho lươn là dây ny-lon buộc chùm. Hàng ngày nước được thay 100%. Trong quá trình nuôi duy trì mực nước là 15-20 cm. Sau 2-3 tháng thả nuôi phải phân cỡ nuôi riêng theo kích thước.
Theo anh Tùng hệ số chuyển đổi là 1.2 (1 kg lươn thịt tiêu tốn 1,2 kg thức ăn), trong đó 70% thức ăn công nghiệp và 30% thức ăn trùn quế. Ngày cho lươn ăn một lần vào buổi chiều tối, trong quá trình nuôi thường xuyên bổ sung vitamin C và các khoáng vi lượng vào thức ăn để tăng sức đề kháng và kích thích tiêu hóa. Sử dụng chất diệt khuẩn để sát trùng cho lươn. Sau 8-10 tháng nuôi lươn có thể cho thu hoạch.Với kích thước trung bình 5-6 con/kg, sau khi trừ chi phí mỗi con lươn bán ra anh lãi khảng 15.000 đồng. Một năm trang trại anh Tùng sản xuất được khoảng chừng 6.000 kg lươn thịt.
Nhận thấy con giống quyết định thành công đến 80% và để chủ động trong sản xuất, anh Tùng học hỏi qua bạn bè, tìm hiểu qua sách báo rồi đầu tư làm 2 bể bạt cho đất vào nuôi lươn sinh sản. Hiện cơ sở anh Tùng đang nuôi vỗ khoảng 600 cá thể lươn bố mẹ, tỉ lệ ghép 2 cái - 1 đực và đang tham gia sinh sản.
Khi đến tuổi thành thục sinh dục lươn đực làm tổ rồi nhả bọt sau đó lươn cái vào đẻ, mỗi tổ đẻ trung bình 300 trứng/lần/cá thể cái. Mùa vụ sinh sản của lươn từ tháng 2 đến tháng 11 hàng năm, đẻ rộ nhất là vào tháng 5 và tháng 6. Hiện cơ sở anh có khoảng 60.000 con lươn giống đang trong thời kỳ xuất bán, giá thị trường hiện nay khoảng 4.000 đồng/con thì doanh thu từ con giống mang lại cho anh khoảng 240 triệu đồng.
Bên cạnh nuôi lươn, mỗi tháng anh Tùng còn sản xuất được khoảng 50 kg trùn quế làm thức ăn cho lươn. Anh Tùng cho biết sắp tới anh sẽ mở rộng quy mô cả nuôi thương phẩm và sản xuất giống, liên kết cung cấp con giống chuyển giao kỹ thuật cũng như bao tiêu sản phẩm cho bà con có nhu cầu về nuôi lươn.
Với lòng say mê, cần cù sáng tạo, chịu khó học hỏi, đến nay mô hình nuôi lươn của anh Tùng đã thành công với quy trình khép kín từ sản xuất con giống, sản xuất trùn quế làm thức ăn đến nuôi lươn thương phẩm. Với mô hình này mỗi năm mang lại thu nhập cho gia đình anh khoảng 700 triệu đồng. Thiết nghĩ đây là mô hình mới hiệu quả cao, cần được nhân rộng trong thời gian tới.