TIN THỦY SẢN

Thực trạng nuôi cá tra giống, tôm thẻ chân trắng ở Đồng Tháp Mười

Nuôi tôm thẻ chân trắng ở Đồng Tháp Mười tiềm ẩn nhiều rủi ro và tác hại. Lam Hồng

Để chấn chỉnh, xử lý và có giải pháp trong thời gian tới, mới đây, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) rà soát, thống kê tình hình ươm, nuôi cá tra giống, tôm thẻ chân trắng tại các huyện, thị xã vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM).

Diện tích ươm nuôi cá tra giống giảm sâu vì thua lỗ

Tại các huyện, thị xã vùng ĐTM, người dân tự phát chuyển đổi từ đất trồng lúa sang đào ao ươm cá tra giống từ năm 2017 và phát triển rất nhanh, đến cuối năm 2019, diện tích đạt trên 3.500ha. Việc bùng phát nuôi cá tra giống, tăng nhanh về diện tích, sản lượng làm dư thừa sản phẩm cá tra giống, mất cân đối cung - cầu đã ảnh hưởng đến việc tiêu thụ và hiệu quả sản xuất.

Anh Lê Ngọc Thanh, ngụ xã Hưng Điền B, huyện Tân Hưng, cho biết: “Từ cuối năm 2019 đến nay, giá cá tra giống luôn ở mức thấp, dao động từ 18.000-25.000 đồng/kg, đa số hộ nuôi bị lỗ, số ít hộ có lãi thấp. Do nuôi cá tra giống không còn hiệu quả như trước nên diện tích cũng giảm dần, nhiều hộ lấp lại ao”.

Thông tin từ Sở NN&PTNT, qua rà soát, diện tích ươm nuôi cá tra giống hiện nay còn khoảng 1.402ha. Trong đó, tập trung nhiều nhất tại 2 huyện Tân Hưng 781ha và Tân Thạnh 450ha (giảm 1.957ha so với cuối năm 2019).

Trong 1.957ha giảm này, có khoảng 1.072ha diện tích ao được lấp, trả lại hiện trạng ban đầu để trồng lúa, sen, cây ăn quả hoặc nuôi thủy sản khác như cá rô, cá trê, tôm thẻ chân trắng, khoảng 885ha vẫn còn giữ lại ao nhưng không tiếp tục sản xuất; lý do không có tiền san lấp trả lại hiện trạng ban đầu hoặc một số người dân vẫn còn hy vọng chờ giá cá giống tăng trở lại sẽ tiếp tục sản xuất. Bên cạnh đó, những hộ dân có điều kiện về vốn đã cải tạo lại ao ươm cá tra giống để đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng.

Tuy nhiên, theo người dân, hiệu quả kinh tế của các đối tượng thủy sản nước ngọt được chuyển đổi như cá rô, cá trê, ếch,… không cao. Riêng đối với những hộ chuyển sang trồng cây ăn trái, chủ yếu là mít, hiện chưa cho thu hoạch nên chưa đánh giá được hiệu quả.

Nhằm định hướng sản xuất, Sở NN&PTNT sẽ tăng cường phối hợp UBND các huyện rà soát lại các vùng nuôi cá tra giống theo hướng tập trung, quy mô sản xuất hàng hóa lớn, ổn định lâu dài, đáp ứng tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định, từng bước xây dựng thương hiệu về chất lượng cá tra giống của tỉnh; tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn các quy trình, giải pháp kỹ thuật nuôi cho người dân.

UBND huyện và ngành Tài nguyên và Môi trường tăng cường công tác quản lý về môi trường, tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân các giải pháp xử lý nước thải từ các ao nuôi cá bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường, kiểm tra, xử lý kịp thời hoạt động chuyển đổi đất từ trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản không theo quy định pháp luật.

Nhiều rủi ro khi nuôi tôm thẻ chân trắng ở Đồng Tháp Mười

Việc nuôi tôm thẻ chân trắng trên vùng nước ngọt ở một số huyện ĐTM của tỉnh xảy ra thời gian qua mặc cho những cảnh báo, khuyến cáo của ngành chức năng. Đến nay, tổng diện tích người dân nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng ĐTM của tỉnh là 215ha với 122 hộ, phân bố tại 5 huyện, thị xã: Tân Hưng, Kiến Tường, Mộc Hóa, Tân Thạnh và Thạnh Hóa. Trong đó, tập trung chủ yếu ở huyện Tân Hưng với 80,5ha (chuyển từ nuôi cá tra giống sang nuôi tôm thẻ) với 33 hộ dân và Mộc Hóa gần 116ha với 68 hộ (có 16ha chuyển từ nuôi cá tra giống sang nuôi tôm thẻ).

Ông Nguyễn Văn Thuận, ngụ xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, cho biết: “Để nuôi tôm thẻ chân trắng, các hộ dân tiến hành khoan giếng tầng nông (độ sâu 30-40m) để lấy nước có độ mặn khoảng 4-9‰ hoặc dùng muối để nâng độ mặn (20 tấn/1.000m2) cho ao nuôi tôm”. Qua nắm thông tin từ người dân, nhiều hộ nuôi tôm thẻ chân trắng có lợi nhuận khá, một số có lợi nhuận rất cao, nhất là ở huyện Mộc Hóa.

Bình quân lợi nhuận cho 1ha/vụ nuôi (3 tháng) lợi nhuận khoảng 750 triệu đồng (chưa tính khấu hao chi phí đào ao, trang thiết bị đầu tư ban đầu). Mỗi năm nuôi khoảng 3 vụ/ha, lợi nhuận hơn 2 tỉ đồng, trừ chi phí đầu tư đào ao, trang thiết bị ban đầu, người dân còn lợi nhuận hơn 1 tỉ đồng/ha/năm. Đối với các hộ nuôi tại các huyện còn lại cũng đều có lợi nhuận nhưng thấp hơn vùng nuôi tại Mộc Hóa (chỉ bằng khoảng 50%) do mật độ nuôi thấp hơn, năng suất, sản lượng thấp hơn. Từ lợi nhuận cao như thế nên theo dự đoán, diện tích nuôi tôm thẻ trong thời gian tới khả năng tiếp tục tăng.

Dù vậy, việc nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng ĐTM như trên tiềm ẩn rất nhiều rủi ro và tác động tiêu cực. Để ngăn chặn việc đào ao nuôi thủy sản trái phép, UBND huyện Mộc Hóa xử phạt vi phạm hành chính 44 trường hợp với tổng số tiền gần 500 triệu đồng; các huyện còn lại chủ yếu tuyên truyền, vận động người dân. Phó Giám đốc Sở NN&PTNT - Đinh Thị Phương Khanh cho biết: “Xét về tổng thể thì việc đưa tôm thẻ chân trắng vào nuôi ở vùng nước ngọt hoàn toàn không phù hợp về đặc điểm sinh học, sự phát triển tự nhiên hài hòa của vùng; đồng thời, có những ảnh hưởng trước mắt cũng như lâu dài, tác động tiêu cực đến mạch nước ngầm do khai thác quá mức, thiếu nước vào mùa khô, gây sụt lún đất đai”.

Mặt khác, theo bà Khanh, việc xả thải, thẩm thấu nước nhiễm mặn từ các ao nuôi ra môi trường bên ngoài gây nhiễm mặn cho vùng nước ngọt, ảnh hưởng đến sản xuất lúa và các cây trồng khác. Bên cạnh đó, hạ tầng cho nuôi tôm không phù hợp, chi phí đầu tư trong quá trình nuôi cao, nguy cơ bùng phát dịch bệnh mọi thời điểm và khó kiểm soát dẫn đến rủi ro thiệt hại lớn cho người dân”.

Từ thực tiễn hoạt động nuôi tôm thẻ chân trắng, những rủi ro và những phân tích, đánh giá của các chuyên gia, nhà khoa học, ngành chức năng ở tỉnh kiến nghị tỉnh tiếp tục có chỉ đạo không cho phép nuôi tôm thẻ chân trắng trong vùng nước ngọt có sử dụng muối, khoan giếng lấy nước mặn để tạo môi trường nước lợ nuôi tôm.

Theo đó, Sở NN&PTNT cũng kiến nghị UBND tỉnh cho chủ trương thực hiện đề tài đánh giá toàn diện và thiết lập bản đồ thổ nhưỡng vùng ĐTM, xác định loại đất của từng vùng phù hợp với từng cây trồng, vật nuôi, trong đó phải đánh giá được những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đặc biệt là xâm nhập mặn, có những cảnh báo, đề xuất để giải quyết bài toán về mặn, ngọt. Xác định nước ngọt, nước lợ, nước mặn đều là tài nguyên phục vụ trong sản xuất nông nghiệp, những vùng hiện tại và khả năng bị ảnh hưởng lâu dài của xâm nhập mặn cần nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng thủy sản - trái cây - lúa, đáp ứng nhu cầu của thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng.

Lam Hồng Báo Long An