Tiềm năng của Sanguinarine trong thức ăn nuôi cá trắm cỏ
Giảm hàm lượng đạm động vật bổ sung, tăng đạm thực vật từ hạt bông và hạt cải trong thức ăn cho cá trắm cỏ giúp giảm chi phí thức ăn, nhưng đồng thời giảm tỷ lệ sống và miễn dịch. Cần có giải pháp đồng thời giảm chi phí và giảm dịch bệnh cho mô hình nuôi, trong những trường hợp tương tự thì chiết xuất thảo dược thường mang đến kết quả khả quan.
Những nghiên cứu gần đây tập trung vào những ứng dụng của các loại chiết xuất từ thực vật như yucca, gừng, tỏi, hành, quế….để thay thế kháng sinh, cải thiện tăng trưởng trong dinh dưỡng động vật và bắt đầu có những kết quả thành công.
Nghiên cứu lần này chú ý đến Sanguinarine, đây là một benzo [C] phenanthidine alkaloid bậc 4 (Mackraj và ctv, 2008), tồn tại ở các cây họ anh túc (Papaveraceae), họ lam cận (Fumariaceae) và họ cam (Rutaceae).
Sanguinarine đã được báo cáo là có nhiều dược tính như đặc tính chống viêm, chống oxy hóa và kháng khuẩn, điều hòa miễn dịch, cải thiện tăng trưởng bằng cách tăng hấp thụ thức ăn và ngăn cản sự giảm các acid amin từ sự tách cacbonyl. Tuy nhiên, tác dụng của nó đối với khả năng miễn dịch và sức khỏe đường ruột của cá trắm cỏ vẫn chưa được làm rõ.
Nghiên cứu ứng dụng sanguinarine lên miễn dịch cá trắm cỏ bằng một thử nghiệm cho ăn kéo dài tám tuần đã được thực hiện để đánh giá tác động của Sanguinarine đối với sự tăng trưởng, khả năng miễn dịch và sức khỏe đường ruột của cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus).
Chế độ ăn trong nghiên cứu gồm chế độ ăn kiêng bột cá gồm chế độ cơ bản cơ bản và chế độ ăn kiêng có bổ sung Sanguinarine:
- Chế độ ăn cơ bản gồm 5% bột cá và 44% bột hạt bông và hạt cải được chỉ định là chế độ ăn kiểm soát (nhóm FM).
- Chế độ ăn kiêng (bột cá 2%, bột hạt bông và hạt cải 55%) bổ sung bốn nồng độ Sanguinarine 0, 0.2, 0.4 và 0.8 g/kg; được chỉ định lần lượt là các nhóm Sanguinarine 0, Sanguinarine 0.2, Sanguinarine 0.4 và Sanguinarine 0.8.
Cà dại hoa vàng (Argemone mexicana) thuộc họ anh túc có thể chiết xuất Sanguinarine. Ảnh: Surajit Koley.
Kết quả chỉ ra rằng chế độ ăn kiêng, dùng Sanguinarine trong chế độ ăn chứa 55% hạt bông và hạt cải làm tăng tỷ lệ sống sót (SR), tỷ lệ tăng cân (WGR), superoxide effutase (SOD) và kiềm phosphatase (AKP) so với nhóm Sanguinarine 0.
Hoạt tính của malondialdehyd (MDA) thấp hơn đáng kể trong nhóm Sanguinarine 0.2 - 0.8 so với nhóm Sanguinarine 0. Nhóm Sanguinarine 0 đã giảm đáng kể số lượng tế bào goblet (tế bào có dạng hình chân có chức năng tiết ra chất nhờn) và giảm chiều dài lông nhung của ruột, mức độ biểu hiện mRNA bị điều hòa giảm đáng kể, giảm biểu hiện của các protein constludin và zona constludin so với các nhóm bổ sung Sanguinarine từ 0.2-0.8%. Tuy nhiên, nhóm bổ sung 55% bột hạt bông và hạt cải có mức độ biểu hiện mRNA được điều chỉnh đáng kể của TNF-α, IL-1β, TLR-7 và TLR-8 so với nhóm đối chứng.
Tỷ lệ Aeromonas tăng đáng kể và Bacteroides giảm đáng kể ở nhóm Sanguinarine 0 so với nhóm FM. Tuy nhiên, tỷ lệ Aeromonas cho thấy giảm đáng kể trong khi tỷ lệ Bacteroides tăng trong nhóm Sanguinarine 0.8.
Hơn nữa, dựa trên chức năng của vi sinh vật, hệ vi sinh vật đường ruột của nhóm Sanguinarine 0.8 hoạt động mạnh hơn liên quan đến chuyển hóa năng lượng, lipid và axit amin so với nhóm Sanguinarine 0.
Như vậy, thức ăn có chứa 55% hạt bông và hạt cải cao hơn ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ sống sót, cấu trúc ruột và khả năng miễn dịch của cá trắm cỏ. Bổ sung sanguinarine cho thấy tác dụng chống viêm và tăng cường miễn dịch ở cá trắm cỏ thông qua các thông số miễn dịch. Liều cao của sanguinarine được thêm vào chế độ ăn nhiều hạt bông và hạt cải làm giảm vi khuẩn Aeromonas trong đường ruột cá.
References: Y.-L. Liu, L. Zhong, T. Chen, et al., Dietary sanguinarine supplementation on the growth performance, immunity and intestinal health of grass carp (Ctenopharyngodon idellus) fed cottonseed and rapeseed meal diets, aquaculture (2020), https://doi.org/10.1016/j.aquaculture.2020.735521.