Ảnh hưởng β-glucan đến cá rô phi trong tình trạng thiếu oxy
Hiện nay, cùng với sự phát triển của ngành Nuôi trồng thủy sản, các đối tượng thủy sản ngày càng được nuôi theo quy mô thâm canh dẫn đến nhiều vấn đề trong đó có sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh do vi sinh vật gây ra, đặc biệt khi cá không được nuôi trong điều kiện tối ưu (mật độ nuôi cao, chất lượng nước kém, thiếu oxy, cho ăn ít hoặc không phù hợp, v.v.)
Tình trạng thiếu oxy là một trong những thách thức quan trọng và phổ biến nhất trong nuôi cá và có thể do nhiều nguyên nhân, bao gồm mùa, thành phần nước, dòng chảy và mật độ cá. Những động vật sống trong môi trường oxy thấp kéo dài, sức miễn dịch sẽ giảm, khả năng kháng bệnh kém. Nghiên cứu cho thấy rõ, khi tình trạng thiếu oxy hòa tan trong nước kéo dài, nguy cơ phát sinh bệnh do vi khuẩn rất dễ dàng tăng lên.
Do đó, các hợp chất tự nhiên có đặc tính kháng khuẩn và kích thích miễn dịch đang ngày càng được nghiên cứu để làm lựa chọn thay thế kháng sing trong nuôi trồng thủy sản.
Beta-glucan là một chất kích thích miễn dịch polysaccharide được liên kết bởi các liên kết Beta-glycosidic giữa các chuỗi glucose. Việc sử dụng β-glucan trong nuôi trồng thủy sản đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc thúc đẩy sức đề kháng cao hơn ở cá trong điều kiện căng thẳng, đặc biệt là trước những thách thức của mầm bệnh vi khuẩn, thông qua việc kích thích các phản ứng miễn dịch bẩm sinh.
Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của việc sử dụng β-glucan trong nước đến năng suất tăng trưởng và các thông số miễn dịch đã được đánh giá trên cá rô phi (Oreochromis niloticus) trong tình trạng căng thẳng do thiếu oxy gây ra. Đồng thời, tác dụng của prebiotic (β-glucan) này được đánh giá trên sự đa dạng của hệ vi sinh vật đường ruột trong điều kiện oxy bình thường.
Ba phương pháp điều trị được thực hiện theo cách bổ sung nước beta-glucan: 0 (đối chứng), 0,1 và 0,3 mg/L. Máu được lấy trước thử thách thiếu oxy (BHC) và 9 giờ sau thử thách giảm oxy (AHC).
Kết thúc thí nghiệm cho thấy, ở nhóm bổ sung 0,3 mg/L, cho thấy tăng trưởng cao hơn so với các nghiệm thức còn lại, tuy nhiên không khác biệt đáng kể.
Tỷ lệ sống không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức chưa giảm oxy (BHC); tuy nhiên, tỷ lệ sống cao hơn đáng kể ở nhóm bổ sung 0,1 mg/L trong bảy ngày sau khi thiếu oxy (7AHC).