TIN THỦY SẢN

Bình Định: Khai thác tiềm năng và thúc đẩy phát triển nghề nuôi biển

Phát triển kinh tế thủy sản là ưu tiên hàng đầu của Bình Định. Ảnh: NTN NTN

Bình Định với chiều dài bờ biển trên 134 km và có nhiều đầm phá, hệ thống vịnh, cảng, vùng biển với hơn 1.440 km2 diện tích vùng nội thủy, 40.000 km2 diện tích lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn.

Đây là điều kiện tự nhiên thuận lợi cho các loài thủy sản sinh trưởng và phát triển với nhiều chủng loại phong phú, đa dạng,…

Tiềm năng nuôi biển Việt Nam

Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, với tổng diện tích tiềm năng nuôi biển lên đến 500 nghìn ha. Trong đó, vùng bãi triều 153,3 nghìn ha, vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo 79.790 ha và nuôi vùng biển xa bờ 100 nghìn ha. Đối tượng nuôi biển phong phú với nhóm cá biển, nhuyễn thể, rong tảo biển…

Năm 2022, tổng diện tích nuôi biển của Việt Nam đạt 85.000 ha, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 23,3%/năm (chưa tính 202 nghìn ha nuôi xen ghép các đối tượng khác), với 8,9 triệu m3 lồng. Đến nay, cả nước có khoảng 7.447 cơ sở nuôi biển với 248.768 lồng, bè.

Trong số này, có 6.506 cơ sở/244.402 lồng, bè nuôi trồng thủy sản trên biển từ bờ ra đến 3 hải lý; 914 cơ sở/4.299 lồng, bè nuôi trồng thủy sản trên biển từ 3 - 6 hải lý; 27 cơ sở nuôi cá biển/137 lồng, bè nuôi trên biển xa trên 6 hải lý.

Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển còn hạn chế, việc quản lý và sử dụng các công trình nuôi biển hiệu quả chưa cao, hoạt động chưa đạt được công suất thiết kế, một số đối tượng giống nuôi biển vẫn còn phụ thuộc vào nguồn giống tự nhiên; thiếu quy hoạch nuôi biển, các hộ ngư dân nuôi biển chưa được hưởng chính sách ưu đãi, thiếu tiêu chuẩn, quy chuẩn nghề nuôi biển…

Thúc đẩy phát triển nghề nuôi biển ở tỉnh Bình Định

Những năm qua, kinh tế thủy sản có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh: Giá trị sản xuất thủy sản năm 2022 đạt 19.319 tỷ đồng, chiếm 36,8% giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản toàn tỉnh. Cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp chiếm gần 30% giá trị GDP của tỉnh, trong đó thủy sản chiếm hơn 35%.

Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của ngành thủy sản bình quân 5 năm giai đoạn 2018 - 2022 là 3,92%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2022 đạt 166 triệu USD tăng 79,6% so với cùng kỳ năm 2021.

Nghề nuôi tôm hùm đang được đầu tư và phát triển tại Bình Định. Ảnh: NTN

Bên cạnh lĩnh vực khai thác thủy sản phát triển tốt tại Bình Định, trong những năm qua, lĩnh vực nuôi trồng thủy sản đã không ngừng phát triển, có những đóng góp quan trọng vào phát triển KT-XH của tỉnh... Hoạt động nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Bình Định tập trung vào các đối tượng nuôi chính là tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá biển.

Diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh hàng năm đạt khoảng 3.500 ha. Sản lượng nuôi trồng thủy sản bình quân 5 năm qua đạt khoảng 11.800 tấn/năm; riêng năm 2022 đạt 13.183 tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2021. Đối với nuôi biển, toàn tỉnh có khoảng 60 ha diện tích mặt nước nuôi lồng bè trên biển chủ yếu do các hộ dân tự đầu tư với kiểu lồng, bè truyền thống; các đối tượng nuôi chính gồm: Cá chẽm, cá bớp/cá giò, cá hồng, cá mú, tôm hùm, mực lá... Năm 2022, có 2.965 lồng nuôi với 56.970 m3, sản lượng đạt 217 tấn tăng 71% so với cùng kỳ năm 2021.

Bên cạnh đó, hiện nay tỉnh có 4 tổ chức cộng đồng đã được công nhận và giao quyền quản lý khu vực biển với tổng diện tích là 46,134 ha và có 220 thành viên; đây là địa điểm có thể xây dựng và phát triển mô hình trồng rong biển kết hợp du lịch sinh thái biển.

Tuy nhiên, do đặc điểm tự nhiên vùng biển của Bình Định là vùng biển hở, bị ảnh hưởng trực tiếp của gió bão; mặt khác đối với nuôi biển hở cần đầu tư vốn lớn và công nghệ nuôi hiện đại nên nuôi biển tại Bình Định chưa được các tổ chức, cá nhân quan tâm đầu tư phát triển. Đây cũng là khó khăn chung trong phát triển nuôi biển của phần lớn các tỉnh ven biển miền Trung.

Tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn

Để khai thác tiềm năng nghề nuôi biển hướng đến phát triển hiện đại, bền vững, mục tiêu lâu dài cần phải: 

- Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển.

- Tiếp tục triển khai hiệu quả Luật Thủy sản và các quy định hiện hành; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị, hình thành các kênh cung cấp thông tin thị trường, thông tin về thiên tai, biến đổi khí hậu; ứng dụng KHKT, công nghệ hiện đại tạo ra các sản phẩm chất lượng, gia tăng giá trị, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế…

- Tháo gỡ khó khăn về thức ăn phục vụ nuôi biển; công nghệ nuôi, bảo quản sau thu hoạch, chế biến, công nghệ sinh học và khuyến ngư.

- Xây dựng và vận hành hệ thống quan trắc môi trường, phòng chống dịch bệnh, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển công nghiệp phụ trợ và dịch vụ,…

NTN