TIN THỦY SẢN

Bối cảnh lịch sử tôm thẻ chân trắng

Tôm thẻ chân trắng là loài tôm nhiệt đới, có nguồn gốc từ vùng biển Tây Mỹ Latinh Hồng Huyền

Tôm thẻ chân trắng có tên khoa học là Penaeus vannamei (Boone, 1931) hay còn được gọi với tên Litopenaeus vannamei, loài này thuộc họ tôm he, họ tôm này là họ tôm có nhiều loài được nuôi phổ biến trên thế giới.

Năm 1997, Pérez Farfante & Kensley đã đề xuất tôm thẻ chân trắng với danh pháp khoa học là Litopenaeus vannamei, nhóm tác giả đã dựa trên những khác biệt về hình thái, đặc biệt là những đặc trưng về cơ quan sinh dục. 

Tuy nhiên, kết quả dựa vào đặc điểm hình thái để phân nhánh giống Penaeus đã không thống nhất với các kết quả phân tích di truyền, do vậy một số nhà nghiên cứu đề nghị vẫn giữ nguyên tôm thẻ chân trắng thuộc giống Penaeus. Flegel (2007) cho rằng sự định loại sai sẽ ảnh hưởng đến nghiên cứu dịch tễ học, cũng như việc quản lý dịch bệnh trên tôm. 

Tôm thẻ chân trắng là loài tôm nhiệt đới, có nguồn gốc từ vùng biển Tây Mỹ Latinh, phân bố từ phía Nam Peru đến phía bắc Mexico. Đầu những năm 1970, chúng được đưa đến các đảo ở Thái Bình Dương, từ đây các nghiên cứu đầu tiên về lai tạo giống được tiến hành nhằm nâng cao tiềm năng nuôi trồng thủy sản đối với đối tượng này. 

Vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, tôm thẻ chân trắng được đưa tới Hawaii và bờ biển phía Đông Đại Tây Dương, bao gồm các nước thuộc Châu Mỹ, phía Nam Carolina, Bắc Texas đến Trung Mỹ và Nam Brazil. Từ đó, tôm thẻ chân trắng đã trở thành loài nuôi chính ở Ecuador, Mexico, Venezuela, Brazil, và Trung Mỹ. 

Tôm thẻ chân trắng được đưa vào Châu Á nuôi thử nghiệm từ năm 1978 đến năm 1979, nhưng chỉ được thương mại hóa từ năm 1996 ở Trung Quốc và Đài Loan, sau đó mở rộng sang Philippin, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan, Malaysia và Ấn Độ (2000-2001) 

Ở Việt Nam vào đầu những năm 2000, tôm thẻ chân trắng cũng được du nhập và nuôi, tuy nhiên việc nuôi đối tượng này vẫn còn hạn chế vì những lo ngại rằng tôm thẻ chân trắng có khả năng truyền bệnh truyền nhiễm cho tôm bản địa. 

Mãi đến năm 2006, ngành thuỷ sản đã cho phép nuôi bổ sung tôm chân trắng tại các tỉnh từ Quảng Ninh đến Bình Thuận, nhưng vẫn cấm nuôi tại khu vực ĐBSCL. 

Đầu năm 2008, nhận thấy thị trường thế giới đang có xu hướng tiêu thụ mạnh mặt hàng tôm thẻ chân trắng của Thái Lan, Trung Quốc… và sản phẩm tôm sú nuôi của Việt Nam bị cạnh tranh mạnh, hiệu quả sản xuất thấp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) đã ban hành Chỉ thị số 228/CT-BNN&PTNT cho phép nuôi tôm chân trắng tại vùng ĐBSCL nhằm đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, giảm áp lực cạnh tranh, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của các nước trong khu vực và trên thế giới (Bộ NN&PTNT).


Tôm thẻ chân trắng sống ở môi trường biển nhiệt đới

Tôm thẻ chân trắng sống ở môi trường biển nhiệt đới. Con trưởng thành sống và sinh sản ở vùng biển khơi, trong khi hậu ấu trùng di cư vào bờ để trải qua các giai đoạn con non và tiền trưởng thành ở các cửa sông ven biển, đầm phá hoặc khu vực rừng ngập mặn. Con đực trưởng thành từ 20 g và con cái từ 28 g trở đi khi được 6–7 tháng tuổi. Chúng nặng 30–45 g sẽ đẻ 100.000–250.000 trứng có đường kính khoảng 0,22 mm. 

Quá trình nở xảy ra khoảng 16 giờ sau khi sinh sản và thụ tinh. Ấu trùng ở giai đoạn đầu tiên, được gọi là nauplius, bơi không liên tục và có khả năng quang hợp tích cực. Nauplius không ăn mà sống bằng noãn hoàn dự trữ của chúng. Các giai đoạn ấu trùng tiếp theo (tương ứng là zoea, mysis và postlarvae - PL) vẫn là sinh vật phù du trong một thời gian, ăn thực vật phù du và động vật phù du, và bị dòng thủy triều cuốn vào bờ. 

Hậu ấu trùng (PL) thay đổi thói quen sinh vật phù du khoảng 5 ngày sau khi lột xác thành PL, chúng di chuyển vào bờ và bắt đầu ăn mảnh vụn sinh vật đáy, giun, hai mảnh vỏ và động vật giáp xác.

Một số lĩnh vực được ưu tiên cao nhất để nghiên cứu về nuôi tôm thẻ chân trắng:

- Tiếp tục phát triển các dòng SPR (Specific Pathogen Resistant - giống kháng bệnh) của tôm thẻ chân trắng đối với các loại virus bao gồm TSV, WSSV, IHHNV, BMNV và IMNV.

- Phát triển các dòng giống SPF (Specific Pathogen Free - giống sạch bệnh)/SPR tăng trưởng nhanh hơn.

- Tiếp tục phát triển các hệ thống nuôi an toàn sinh học, mật độ cao và độ mặn thấp.

- Tiêm phòng và các phương pháp điều trị hiệu quả khác đối với bệnh virus.

- Thay thế các loại thức ăn biển tốn kém và không thân thiện với môi trường trong thức ăn cho tôm.

- Hệ thống quản lý và xử lý nước hiệu quả cho hệ thống nuôi khép kín.

- Kỹ thuật giảm tải vi khuẩn trong hệ thống nuôi tôm.

- Quy trình khử trùng hiệu quả trứng và ấu trùng trong trại giống.

- Thay thế hiệu quả (tức là men vi sinh và chất kích thích miễn dịch) cho thuốc kháng sinh.

Hồng Huyền