Cải tạo ao nuôi tôm: Khâu quan trọng phòng chống dịch bệnh
Bước cải tạo ao là bước chuẩn bị các điều kiện thích hợp cho vụ nuôi tiếp theo, vừa giúp người nuôi chủ động xử lý những vấn đề xảy ra trong quá trình nuôi vừa tiết kiệm được chi phí vận hành sản xuất và góp phần hạn chế dịch bệnh cho tôm nuôi.
Sau khi tháo cạn nước để thu hoạch tôm, ao nuôi cần phải thực hiện nhiều bước xử lý khác nhau để chuẩn bị cho chu kỳ nuôi tiếp theo. Khâu cải tạo ao nuôi tôm tập trung vào việc tránh sự lây truyền mầm bệnh từ vụ này sang vụ khác và giúp đảm bảo các yếu tố môi trường phù hợp cho tôm nuôi. Nếu quá trình cải tạo ao không tốt, đáy ao bị suy thoái, lượng bùn tích tụ nhiều sẽ là nguyên nhân khiến tôm chậm phát triển và làm tăng nồng độ khí độc trong ao. Chất lượng đất và nước giảm làm tôm dễ bệnh, phương pháp cải thiện chất lượng đất cũng có thể được bao gồm trong việc chuẩn bị ao.
Phơi ao, làm đất, bón vôi
Ao tích tụ các hạt sét bị xói mòn từ đất và chất hữu cơ có nguồn gốc từ sinh vật phù du chết, thức ăn thừa, phân tôm. Để làm sạch đáy ao sau mỗi vụ, có thể được thực hiện bằng việc sử dụng máy bơm thủy lực với ống áp lực cao hút hoặc đẩy chất thải ra khỏi ao khi đáy ao ướt hoặc sử dụng máy đào sau khi đáy khô.
Việc loại bỏ trầm tích sau mỗi vụ nuôi là cần thiết. Các ao trống thường được phơi khô dưới ánh mặt trời trong hai tuần trở lên. Bước này giúp làm giảm độ ẩm của đất đủ để tiêu diệt hầu hết các sinh vật (bao gồm cả các sinh vật gây bệnh) còn lại trong ao sau khi thoát nước.
Việc sử dụng bằng máy bừa đôi khi được thực hiện để phá vỡ khối đất, tăng khả năng tiếp xúc của đất với không khí và tăng tốc độ làm khô. Máy cày cũng có thể được sử dụng cho mục đích này, nhưng máy cày khuôn làm việc đảo đất không hiệu quả.
Một số ao có bề mặt gồ gề với những chỗ đất lún giữ nước lâu sau khi phần còn lại của đáy đã khô. Một số ao cũng có thể không khô tốt do sự xâm nhập của nước ngầm từ các ao hoặc kênh lân cận. Việc phơi khô đáy ao hoàn toàn là điều không thể đặc biệt trong mùa mưa.
Một số nông dân sử dụng vôi tôi hoặc vôi ngậm nước bón vào đáy ao với liều cao giúp làm tăng pH đất đủ để tiêu diệt các sinh vật không mong muốn bao gồm cả các sinh vật gây bệnh. Tuy nhiên, tỷ lệ xử lý hiệu quả cao - tối thiểu 3.000 kg/ha (300 gram mỗi mét vuông) vôi tôi hoặc 4.000 kg/ha (400 gram mỗi mét vuông) vôi ngậm nước.
Quy trình tốt nhất có thể là làm khô đáy ao và xử lý vôi cho các khu vực đáy không khô. Tuy nhiên, một số nhà sản xuất xử lý toàn bộ đáy ao bằng vôi sau mỗi vụ. Vật liệu bón vôi sẽ không hòa tan trong đất khô để tăng độ pH do đó nên bón vôi trong khi đáy ao vẫn còn ẩm.
Calcium hypochlorite Ca(ClO)₂ - chất khử trùng Chlorine, là một hỗn hợp chất gồm vôi và canxi clorua cũng có thể được áp dụng trên các khu vực ẩm ướt cho mục đích khử trùng. Áp dụng 100 đến 200 gram mỗi mét vuông của chất khử trùng này. Đồng sulfat, formalin và kali permanganat (thuốc tím) cũng đã được sử dụng để khử trùng đất, nhưng chúng không hiệu quả như vôi hoặc chất khử trùng Chlorine.
Chuẩn bị ao thích hợp đòi hỏi phải làm khô đáy và sử dụng của các sản phẩm vôi, như đã thấy trong ao tôm ở Châu Phi này. Ảnh của Darryl Jory.
Đáy ao có độ pH đất dưới 7 nên được điều chỉnh để tăng độ pH. Nếu vôi tôi hoặc vôi ngậm nước được sử dụng để khử trùng, ứng dụng của chúng cũng sẽ trung hòa độ chua của đất. Nếu ao khô hoàn toàn và vôi không được sử dụng để khử trùng, sử dụng đá vôi nông nghiệp ít tốn kém hơn cho mục đích trung hòa độ chua của đất. Tỷ lệ ứng dụng đá vôi nông nghiệp điển hình được cung cấp trong Bảng 1. Đá vôi nông nghiệp nên được trải đều trên đáy ao trong khi đất vẫn còn ẩm.
Bảng 1. Yêu cầu vôi gần đúng của đất đáy trong ao nuôi tôm dựa trên độ pH của đất.
Cấp nước, khử trùng
Nước cấp vào ao thường được thông qua túi lọc hoặc lưới lọc tốt để loại bỏ các sinh vật không mong muốn. Mặc dù quá trình lọc sẽ làm giảm khả năng cá và các sinh vật kích thước lớn khác xâm nhập vào ao, nhưng nó sẽ không ngăn được sự xâm nhập của nhiều sinh vật gây bệnh và các vectơ nhỏ hơn của các sinh vật gây bệnh.
Cách hiệu quả nhất để ngăn chặn sự xâm nhập của các sinh vật gây bệnh thông qua việc cung cấp nước là khử trùng. Chất khử trùng có thể được áp dụng cho nước được giữ trong ao lắng hoặc được thực hiện trực tiếp trong các ao nuôi. Một loạt các chất khử trùng như canxi hypochlorite, chloramine T, kali permanganat, đồng sulfat, hydro peroxide, hợp chất iốt, benzalkonium clorua và glutaraldehyd được sử dụng. Hiệu quả nhất có lẽ là canxi hydochlorite ở nồng độ 20 đến 30 mg/L.
Gây màu và thả giống
Tôm giống không thể được thả cho đến khi tác dụng độc hại của chất khử trùng đã tiêu tan - điều này thường chỉ cần ba đến năm ngày. Tuy nhiên, sau quá trình đáy ao thường được sấy khô, vôi được tạt xuống đáy và nước được khử trùng thì ao thường có nước trong.
Tôm postlarval có thể sử dụng thức ăn công nghiệp, nhưng chúng được hưởng lợi rất nhiều từ các sinh vật tự nhiên trong một vài tuần sau khi thả. Ao nên được gây màu để khuyến khích sự phát triển của thực vật phù du, động vật phù du và sinh vật đáy trước khi thả giống. Bón phân bằng urê và supe lân hoặc các loại phân bón thương mại khác có thể được sử dụng để thúc đẩy sự phát triển của thực vật phù du.
Tuy nhiên, việc sử dụng kết hợp một loại phân hữu cơ với phân bón thương mại sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của động vật phù du và sinh vật đáy hơn là chỉ sử dụng phân bón thương mại. Và cách tốt hơn là áp dụng bột đậu nành, thức ăn tôm, cám gạo hoặc một số chất hữu cơ chất lượng cao khác.
Tỷ lệ điển hình là 6 đến 8 kg nitơ (12 -18 kg/ha urê), 1 đến 2 kg phốt pho (5 đến 10 kg/ ha ba supe lân) và khoảng 100 - 200 kg/ha phân hữu cơ chất lượng cao. Các lần đánh nên được lặp đi lặp lại nếu một sinh vật phù du nở hoa không phát triển trong vòng bốn đến năm ngày. Đôi khi có thể mất đến hai tuần để có được một ao nuôi có màu đẹp.
Việc gây màu có thể phải được tiếp tục trong khoảng thời gian hai đến ba tuần để duy trì sinh vật phù du nở hoa, nhưng một khi tốc độ cho ăn đạt 20 đến 30 kg/ha/ngày, thì không cần gây màu bởi đã có đủ chất dinh dưỡng do thức ăn thừa, phân và bài tiết tôm.
Những ý kiến khác
Một số nông dân thích bón vôi vào nước ao với số lượng nhỏ trong khoảng thời gian thường xuyên trong giai đoạn nuôi. Vật liệu vôi không hòa tan trừ khi độ kiềm của nước giảm xuống dưới 60 đến 70 mg/L. Vôi thường không có lợi trong thời kỳ nuôi.
CLAUDE E. BOYD, PH.D. aquaculturealliance.org