TIN THỦY SẢN

Đánh giá chất lượng và chọn tôm giống

Giống tôm thẻ chân trắng PGs. Ts. Trần Ngọc Hải, KTS – ĐH Cần Thơ

Đánh giá chất lượng tôm giống và chọn được tôm giống sạch bệnh, khỏe và chất lượng cao cho nuôi thương phẩm là rất quan trọng, quyết định lớn đến sự thành công của vụ nuôi.  Các trại giống và cả người mua đều có trách nhiệm trong việc đảm bảo chất lượng tôm giống tốt cho nghề nuôi.

 1. Đánh giá chất lượng tôm giống tại trại giống trong quá trình ương và trước khi bán

Trong trại sản xuất giống tôm, đánh giá chất lượng ấu trùng và hậu ấu trùng là khâu rất quan trọng nhằm đảm bảo tôm bán ra đạt chuẩn thả nuôi. Theo FAO (2007), việc đánh giá chất lượng ấu trùng và hậu ấu trùng tôm cần đảm bảo đủ 3 mức độ sau:

Mức 1: quan sát ấu trùng, tôm bột và nước ương để đánh giá cảm quan sức khỏe của tôm. Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm quan sát hoạt động bơi lội, hướng quang, dải phân tôm, dấu hiện phát sáng, trắng thân, độ đồng đều các giai đoạn và độ đầy ruột (Bảng 1).

Bảng 1.  Đánh giá mức 1 (Quan sát đánh giá mẫu ấu trùng và hậu ấu trùng trong trại giống)

Chỉ tiêu

Điểm

Giai đoạn

Quan sát

Hoạt động bơi lội

-  Mạnh (>95%)

-  Trung bình (70-95%)

-  Yếu (<70%)

 

10

5

0

 

Tất cả các giai đoạn

 

Hàng ngày 2-4 lần

Hướng quang

-  Rất mạnh(>95%)

-  Trung bình (70-95%)

-  Yếu (<70%)

 

10

5

0

 

Ấu trùng zoae

 

Hàng ngày 2-4 lần

Dải phân tôm

-Có (90-100%)

- Trung bình (70-90%)

-  Không <70%)

 

10

5

0

 

Ấu trùng zoae

 

 

Hàng ngày 2-4 lần

Phát sáng

-  Không có

-  Có (<10%)

-  Nhiều (>10%)

 

10

5

0

 

Mysis

 

Quan sát đáy bể ban đêm

Bệnh trắng thân

-  Không có

-  Có (<10%)

-  Nhiều (>10%)

 

10

5

0

 

Postlarvae

 

Hàng ngày 2-4 lần

Độ đồng đều giai đoạn

-  Cao (80-100%)

-  Trung bình (70-80%

-  Kém (<70%)

 

10

5

0

 

Tất cả các giai đoạn

 

Hàng ngày 2-4 lần

Độ đầy ruột

-  Đầy ruột (100%)

-  Nửa ruột (50%)

- ; Đói (20%)

 

10

5

0

 

Mysis

 

Hàng ngày 2-4 lần

Mức 2: đánh giá bằng cách xét nghiệm mẫu tôm dưới kính hiển vi về các đặc điểm hoại tử, trương ruột, sinh vật bám trên thân, trải mẫu tươi, nhuộm mẫu các bệnh vi-rút như MBV, protozoa, hay cấy vi khuẩn trong môi trường agar (Bảng 2).

Bảng 2  Đánh giá mức 2 (Quan sát mẫu dưới kính hiển vi, nhuộm nhanh tôm trong trại giống)

Chỉ tiêu

Điểm

Giai đoạn

Quan sát

Gan tụy (giọt dầu)

-  Nhiều (>90%)

-  Trung bình (70-90%)

- ; Ít  (<70%)

 

10

5

0

 

Tất cả các giai đoạn

 

Hàng ngày 2-4 lần

Độ đầy ruột/trương ruột sau

-  Đầy ruột (>95%)/(0% trương ruột)

-  Trung bình  (70-95%)/ (1-10% trương ruột)

-  Đói (<70%) />10% trương ruột)

 

10

 

 

5

0

 

Tất cả các giai đoạn

 

Hàng ngày 2-4 lần

Hoại tử

-  Không (0%)

-  Có (<15%)

-  Nhiều (>15%)

 

10

5

0

 

Tất cả các giai đoạn

 

Hàng ngày 2-4 lần

Dị hình

-  Không (0%)

-  Có (<10%)

-  Nhiều (>10%)

 

10

5

0

 

Tất cả các giai đoạn

 

Hàng ngày 2-4 lần

Sinh vật bám

-  Không (0%)

-  Có (<15%)

-  Nhiều (>15%)

 

10

5

0

 

Tất cả các giai đoạn

 

Hàng ngày 2-4 lần

Vi-rút

-  Không (0%)

-  Có (<15%)

-  Nhiều (>15%)

 

10

5

0

 

Mysis

 

Hàng ngày 2-4 lần

Mức 3: đánh giá bằng kỹ thuật hiện đại như sinh học phân tử (kiểm tra PCR), cảm nhiễm và gây cảm nhiễm, miễn dịch (Bảng 3).

Bảng 3  Đánh giá mức 3: Phân tích PCR mẫu tôm ở phòng thí nghiệm

Kỹ thuật phân tích

Bệnh

Định tính

Điểm

 

PCR

WSSV

Âm tính

10

YHV

Âm tính

10

MBV

Âm tính

10

 

Vi-rút khác

Âm tính

10

 Tùy vào mức độ của các chỉ tiêu được cho điểm sẽ giúp đánh giá được ấu trùng khỏe hay yếu. Điểm tổng càng cao thì ấu trùng và tôm bột càng có chất lượng cao và ngược lại. Khi xem xét khả năng chọn lựa tôm để tiếp tục ương nuôi hay hủy bỏ, nên xem xét tầm quan trọng của các bước theo chiều ngược lại. Nghĩa là cần xem xét mức 3 trước, nếu xét nghiệm mức 3 cho thấy tôm không bị nhiễm vi-rút thì xem xét tiếp mức 2 và tiếp đó là mức 1.  Trong bất kỳ trường hợp nào, khi có 2 chỉ tiêu trở lên có điểm 0 thì nên loại bỏ tôm.

2. Các bước chọn tôm giống chất lượng tốt để mua

Để chọn được tôm giống tốt thả nuôi, người nuôi tôm cần chú ý xem xét, thực hiện tốt các bước sau:

  1. Lập kế hoạch thả tôm đúng lịch thời vụ và cả vùng thả giống đồng loạt trong vòng 2 tuần. Các ao kế cận tốt nhất nên thả tôm cùng một mẻ.
  2. Chọn trại tôm giống có uy tín, để đến xem và đánh giá chất lượng giống
  3. Chọn mẻ tôm đồng cỡ, tôm bột PL15 dài trên 1,2cm; có cùng tôm mẹ. Tôm tốt thì đồng màu, có màu xám hay nâu nhạt. Tôm có màu đỏ hay hồng có thể yếu hay đã bị sốc. Tôm hoạt động nhanh. Khi cho vào thau nước, khuấy tròn nhẹ, tôm khỏe bơi ngược dòng ven thành thau, tôm yếu bị gom lại giữa thau.
  4. Cách khác, chọn 20-30 con tôm bột cho vào cốc có chứa nước ương (1/2 cốc) rồi cho nước ngọt vào đầy cốc. Nếu tôm chết quá 25% sau 1 giờ thì không mua.
  5. Xem tôm dưới kính hiển vi, nếu tôm bị nhiều sinh vật bám và dơ; nhiều tôm bị mất chân thì không mua. Kiểm tra đốt bụng kế đuôi, nếu độ dày cơ thịt gấp hơn 4 lần ruột thì tốt. Ruột nên đầy thức ăn.
  6. Chuyển sống 15 tôm bột trong bao nilon đến phòng thí nghiệm để kiểm tra nhanh vi-rút bệnh còi MBV và chỉ chọn mua lứa tôm không bị nhiễm vi-rút này. Cho 60 tôm bột vào lọ chứa dung dịch cồn rồi chuyển đến phòng thí nghiệm kiểm tra bệnh đốm trắng và các bệnh vi-rút khác bằng phương pháp PCR. Chỉ chọn mua lứa tôm không nhiễm vi-rút.
  7. Vận chuyển tôm buổi sáng hay chiều tối, mật độ 1.500-2.000 con/L trong bao chứa 2 lít nước.

3. Loại bỏ tôm yếu trước khi thả

Thông thường tôm giống được kiểm tra chất lượng kỹ trước khi mua. Tuy nhiên, sau khi chuyển tôm giống về đến ao nuôi (trước khi thả) cũng cần loại bỏ tôm yếu bằng cách gây sốc formol, chỉ chọn tôm thật khỏe để thả nuôi. Loại bỏ tôm yếu bằng cách cho tôm phục hồi một thời gian sau khi vận chuyển, sau đó, cho tôm vào một bể chứa nước ao có pha formol với nồng độ 20 mL formol/100 lít nước. Mật độ tôm thả là 50.000 con/100 lít nước. Sục khí vừa phải để đảm bảo oxy trong nước. Sau 1 giờ, loại bỏ tôm yếu bằng cấy khuấy tròn nước trong bể để tôm yếu bị tập trung vào giữa bể, tôm mạnh khỏe sẽ bám thành bể và ngược dòng nước. Những đàn tôm mạnh thì tỉ lệ tôm chết không quá 10%.  Theo Chanratchakool et ctv (1995) thì cách làm này khá hiệu quả trong việc ngăn ngừa rủi ro bệnh tôm trong ao nuôi.

PGs. Ts. Trần Ngọc Hải, KTS – ĐH Cần Thơ UV-Việt Nam