TIN THỦY SẢN

Để nuôi cá theo mô hình “sông trong ao” hiệu quả

Năng suất của mô hình “sông trong ao” có thể đạt tới 70 tấn/ha Ảnh: TSVN Nguyễn Hà

Một vài năm gần đây, mô hình nuôi cá “sông trong ao” được áp dụng ở một số địa phương và được xem là một giải pháp công nghệ mới, mang lại năng suất và lợi nhuận cao cho người nuôi.

Khái niệm

“Sông trong ao” là cách gọi tiếng Việt của một hệ thống công nghệ nuôi cá có tên tiếng Anh In pond raceway system (IPRS). Hệ thống này có xuất xứ từ Mỹ, được phát triển bởi GS Jesse Chappell thuộc Trường Đại học Auburn và được USSEC (Hội đồng Xuất khẩu Đậu tương Mỹ) giới thiệu vào Việt Nam. IPRS là hệ thống nuôi cá bằng máng nước chảy đặt trong ao.

Nguyên lý hoạt động

Người nuôi cần tạo ra cái máng đặt chìm trong ao. Toàn bộ sản lượng cá nuôi tập trung trong máng. Thường với ao có diện tích 1 ha có thể thiết kế 2 máng có kích cỡ với chiều dài 25 m, rộng 5 m, sâu 2 m. Nước lấy từ ngoài ao được sục khí để tăng cường ôxy hòa tan và tạo dòng nước trong máng. Dòng nước có hàm lượng ôxy hòa tan cao giúp cho cá hô hấp tốt; đồng thời còn có tác dụng cuốn chất thải rắn của cá đến phía cuối máng. Ở cuối máng, chất thải rắn của cá sẽ được hút bỏ đi hàng ngày. Nước sau khi đi qua máng nuôi cá được chảy ra ngoài ao. Môi trường nước ngoài ao không có cá, hoặc chỉ có số ít cá ăn lọc như cá mè và là nơi để xử lý nước thải từ hệ thống máng trước khi nước được đẩy trở lại máng nuôi cá. Cá nuôi được cho ăn bằng máy tự động, khẩu phần ăn được chia nhỏ để cho ăn suốt ngày.

Từ năm 2016 đến 2018 đã có khoảng 250 máng được xây dựng trên khắp các tỉnh miền Bắc. Đối tượng cá nuôi trong IPRS rất đa dạng, bao gồm cá rô phi, cá điêu hồng, cá chép, cá trắm cỏ, cá lăng...

Ưu điểm

• Nguồn nước giàu ôxy hòa tan nên nuôi cá được mật độ rất cao, sản lượng cá trong máng lớn gấp 2 - 3 tần so với sản lượng cá nuôi thông thường ngoài ao, năng suất có thể đạt tới 70 tấn/ha.

• Thu gom và loại bỏ được chất thải của cá nên có thể hạn chế khí độc, giảm ô nhiễm môi trường và giảm nguy cơ dịch bệnh cho cá.

• Giảm chi phí thức ăn, năng lượng và thuốc chữa bệnh tính trên kilogam cá thu hoạch.

• Chủ động kiểm soát tình hình ăn, bệnh cá, hoạt động của cá…

• Bảo vệ môi trường.

Hạn chế

Trên thực tế, một số cơ sở nuôi cá có năng suất 10 - 15 tấn/máng, tức là khoảng 30 tấn/ha. So với các cách nuôi truyền thống, IPRS chưa mang lại năng suất và lợi nhuận vượt trội. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở nuôi cá IPRS không có lãi thậm chí thua lỗ, do chi phi xây dựng vận hành cao nhưng cá chậm lớn và năng suất thấp, chỉ đạt 3 - 5 tấn/máng, tức là khoảng 8 - 10 tấn/ha.

Theo một số chuyên gia, có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp như:

Một số hệ thống IPRS được xây dựng không đúng quy cách thiết kế ban đầu, dẫn đến quá trình vận hành không đạt mục tiêu là loại bỏ phần lớn chất thải rắn do cá thải ra, đồng thời không xử lý triệt để được nguồn hữu cơ hòa tan trong nước một cách tự nhiên. Do đó, trong môi trường mật độ cao, cá nuôi không đạt được tốc độ lớn như mong đợi.

Diện tích không đủ rộng theo thiết kế, số máng xây dựng nhiều hơn thiết kế, dẫn đến chu kỳ tuần hoàn của nước ngắn, không đủ thời gian để nước được làm sạch trước khi quay trở lại máng nuôi cá.

Hệ thống sục khí tự thiết kế, tự thi công không tuân thủ nguyên tắc và mục tiêu. Quá trình tự xử lý nước trong ao nuôi cũng cần ôxy nhưng không được cung cấp bổ sung.

Hệ thống hút chất thải rắn hoạt động không hiệu quả và không liên tục dẫn đến nước ao nhanh chuyển sang tình trạng phì dưỡng và ô nhiễm.

Lượng cá thả ngoài hệ thống IPRS quá nhiều, số cá này tiêu thụ thức ăn, thải chất thải rắn mà không được thu gom làm ô nhiễm nước, tiêu hao ôxy...

IPRS là kỹ thuật nuôi cá thân thiện với môi trường, đơn giản, dễ quan sát và dễ làm theo. Tuy nhiên phần lớn người nuôi cá chưa hiểu thấu đáo nguyên lý hoạt động của hệ thống trước khi đầu tư xây dựng nên dẫn tới việc tự ý thay đổi thiết kế, lược bỏ thiết kế, vận hành không đúng nguyên tắc. Vì vậy, cần các chuyên gia tư vấn cho các cơ sở sản xuất từ khâu thiết kế xây dựng, vận hành và có những nghiên cứu điều chỉnh, tối ưu hệ thống cho phù hợp với điều kiện kinh tế, môi trường nuôi cá đa dạng ở Việt Nam.

Nguyễn Hà TSVN