Hội chứng hoại tử gan tụy cấp trên tôm
Hội chứng hoại tử gan tụy là một trong những nguyên nhân chính gây nhiều thiệt hại trêm tôm nuôi. Bộ NN&PTNT đã khẳng định việc xác định nguyên nhân và phòng dịch bệnh luôn là ưu tiên hàng đầu. Đến nay, với các nỗ lực đã được thực hiện, các nghiên cứu bước đầu đã xác định được nguyên nhân dịch bệnh.
Trong năm 2012, cả nước có khoảng 100.776 ha diện tích nuôi tôm nước lợ bị thiệt hại do dịch bệnh. Trong đó, diện tích bị thiệt hại do hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính là 46.093 ha chiếm 45,7% được xem là nguyên nhân chính gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng đến sản lượng, giá trị XK tôm năm 2012. Trước tình hình dịch bệnh trên diện rộng và kéo dài, lãnh đạo Bộ NN&PTNT xác định việc tìm ra nguyên nhân và cách phòng trị là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, trong đó các nghiên cứu tập trung vào các vấn đề: định nghĩa bệnh, bản đồ dịch tễ, vai trò của các yếu tố vô sinh, hữu sinh…đến hội chứng hoại tử gan tụy trên tôm.
Dựa trên những biến đổi cấu trúc mô học, đã đưa ra được 5 tiêu chí để xác định hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm: (1)Thoái hóa cấp gan tụy; (2) Thiếu hoạt động phân bào đẳng nhiễm của tế bào có nguồn gốc từ mô phôi tế bào E (Embyonalzellen); (3) Rối loạn chức năng các tế bào trung tâm tổ chức gan tụy: tế bào tiết B (Basenzellen), tế bào xơ F (Fibrillenzellen), tế bào dự trữ R (Restzellen); (4) Các tế bào có nhân lớn bất thường và có sự bong tróc tế bào; (5) Giai đoạn cuối các tế bào máu tập hợp ở khoảng giữa các ống gan và nhiễm khuẩn.
Hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính xảy ra quanh năm và chủ yếu ở vùng nuôi thâm canh và bán thâm canh. Dịch bệnh trầm trọng nhất từ tháng 4 đến tháng 7 (chiếm 75% diện tích), các vùng có độ mặn thấp tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn so với vùng có độ mặn cao. Các tháng có nhiệt độ thấp, mùa mưa tỷ lệ xuất hiện bệnh cũng ít hơn so với các tháng mùa không, có nhiệt độ cao.
Hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm giống
Kết quả phân tích 322 mẫu tôm giống trong cả nước cho thấy nhiều mẫu tôm giống bị nhiễm vi khuẩn, 53,8% mẫu thu tại khu vực miền Trung bị nhiễm Vibrio, phổ biến nhất là các loài V. parahaemolyticus, V. harveyi và V.vulnificus. Đã phát hiện 3 mẫu tôm giống bị hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính với các dấu hiệu mô học đặc trưng theo định nghĩa bệnh. Số mẫu tôm khác tuy không có dấu hiệu mô bệnh học đặc trưng của hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính nhưng khoảng 15% số mẫu có dấu hiệu bất thường ở tổ chức gan tụy: số lượng hạt mỡ ít hơn bình thường, tế bào gan có nhân phình to, nhân bị chia thành nhiều phần có hình dạng và kích thước khác nhau.
Tôm chết - Ảnh : Đại Đoàn Kết
Thuốc bảo vệ thực vật, tảo độc và hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm
Các loại thuốc bảo vệ thực vật (Cypermethrin, Deltamethrin, Chlopyrifos, Fenitrothion, Hexaconazole) được phát hiện trong trong mẫu nước và bùn đáy ở cả các ao tôm bị lẫn không bị hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tínhhội chứng hoại tử gan tụy cấp tính trên cả nước. Lượng thuốc bảo vệ thực vật tồn dư trong nước ao giao động từ 0,04 – 0,17 μg/l và 0,12 – 9 μg/kg bùn đáy áo, tương đương thậm chí cao hơn nồng độ đã gây chết tôm giống trong điều kiện thực nghiệm.
Ngoài ra, nghiên cứu thực nghiệm cũng đã đánh giá ảnh hưởng của Cypermethrin (0,01 – 0,5 ppb trong nước và 50 – 400 ppb trong bùn) đến hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm giống, tuy gây chết tôm ở nồng độ rất thấp, nhưng không thấy tôm chết có dấu hiệu hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính đặc trưng.
Các nghiên cứu cũng đã phân tích thành phần và số lượng tảo độc trong các ao nuôi tôm đã phát hiện một số loài tảo độc như: Microcystis, Oscillatoria, Prorocentrum minimum… Tuy nhiên không thấy sự khác biệt rõ rệt giữa ao tôm bị bệnh và không bị bệnh về thành phần tảo độc.
Thức ăn, chế phẩm sinh học và hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm
Kiểm tra 25 mẫu chế phẩm sinh học đang dùng khá phổ biến trong nuôi tôm cho thấy nhiều loại chế phẩm sinh học có chất lượng rất thấp, một số chế phẩm thậm chí không có dòng vi sinh chính hoặc hàm lượng rất thấp so với chất lượng đăng ký và công bố trên nhãn hàng hóa. Điều nguy hiểm là một số chế phẩm sinh học có nhiễm các vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio, có chế phẩm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus tới 3x103CFU/g.
Ngoài ra, phân tích một số loại thức ăn nuôi tôm không thấy sự hiện diện của các loại chất độc như Hexaconazole, Abamectin, Emamectin Benzoate trong thức ăn.
Ký sinh trùng, virus, vi khuẩn, bacteriophage và hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm
Kết quả phân tích mẫu tôm hoại tử gan tụy cho thấy không có sự xuất hiện của ngoại ký sinh trùng ở tôm bệnh, một vài mẫu phát hiện trùng 2 tế bào, và các loài virus như: WSSV, YHV, TSV, IHHNV. Tuy nhiên không thấy vai trò của chúng đối với hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm.
Phát hiện nhiều vi khuẩn ở tôm bị hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tất cả các vùng nuôi tôm; trong đó, vi khuẩn Vibrio chiếm thành phầm chủ yếu và phổ biến nhất là các loài V.parahaemolyticus, V.harveyi, V.vulnificus. Nghiên cứu khả năng lây nhiễm hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm, một loạt các thực nghiệm cảm nhiễm bệnh đã được tiến hành. Tôm giống khỏe được thí nghiệm lây nhiễm thông qua nuôi chung với tôm bệnh, cho ăn thức ăn có trộn gan tụy thu từ tôm bệnh, ngâm tôm trong môi trường có gan tụy thu từ tôm bệnh, tiêm dịch chiết gan tụy tôm bệnh. Các thí nghiệm được tiến hành ở nhiều nồng độ gây nhiễm và thời gian khác nhau. Kết quả cũng đã cho thấy hiện tượng lây nhiễm xảy ra ở tôm thí nghiệm, tuy nhiên mức độ lây nhiễm không cao và dường như phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Tôm bị nhiễm bệnh được chuyển tới môi trường nước sạch đã giảm tỷ lệ chết, có khả năng phục hồi.
Để làm rõ vai trò của vi khuẩn, virus gây lây nhiễm hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm các nghiên cứu cũng đã thực hiện gây nhiễm tiêm tôm khỏe với dịch lọc thô gan tụy tôm bệnh (có virus và các loại vi khuẩn), dịch lọc qua lưới 0,45 μm cho phép virus và vi khuẩn có kích thước nhỏ đi qua và dịch lọc qua lưới 0,20 μm chỉ cho virus đi qua. Hiện tượng tôm chết được ghi nhận ở lô gây nhiễm bằng dịch lọc thô, không ghi nhận hiện tượng chết ở các lô gây nhiễm bằng dịch qua lọc 0,45 μm và 0,20 μm. Kết quả này cho thấy virus không phải là tác nhân gây hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm nuôi.
Đánh giá vai trò của bacteriophage, đã thí nghiệm tiêm tôm với vi khuẩn và tiêm tôm với vi khuẩn có thêm phage. Kết quả không thấy tôm chết, hoặc tỷ lệ chết thấp ở lô thí nghiệm chỉ tiêm với vi khuẩn, tôm chết 100% sau 24h ở lô tiêm hỗn hợp vi khuẩn với phage.
Nguyên nhân, tác nhân gây hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính
Tôm giống nhiễm Vibrio với tỷ lệ khá cao, có dấu hiệu bất thường ở gan tụy, một số phát hiện hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính đặc trưng là nguyên nhân giải thích tại sao tôm chết sớm trong ao nuôi. Cùng với đó, nhiều chế phẩm sinh học không đảm bảo chất lượng được sử dụng trong ương giống, nuôi thịt và một số loại chế phẩm sinh học có sự hiện diện của một số vi khuẩn thuộc giống Vibrio với mật độ cao không mang lại hiệu quả khi sử dụng, mà còn là nguy cơ lan truyền, phát tán vi khuẩn có hại trong môi trường nước nuôi tôm.
Sự khác biệt không rõ rệt giữa các yếu tố thủy lý hóa cơ bản, tảo độc vào các loại thuốc bảo vệ thực vật giữa các ao nuôi có hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính và ao nuôi không bị bệnh, cùng với thực nghiệm dùng thuốc bảo vệ thực vật gây bệnh trên tôm không có kết quả. Điều này cho thấy các yếu tố này không phải là tác nhân trực tiếp gây hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm. Tuy nhiên, diễn biến dịch bệnh có khuynh hướng mùa vụ, sự khác biệt về tỷ lệ chết, khả năng phục hồi của tôm bệnh và kết quả khác nhau khi thực nghiệm lây nhiễm trong điều kiện môi trường khác nhau cho thấy các yếu tố môi trường, sự hiện diện của thuốc bảo vệ thực vật tuy không là tác nhân trực tiếp, nhưng có vai trò rất quan trọng dẫn đến sự bùng phát và mức độ trầm trọng của dịch bệnh.
Mặc dù phát hiện ký sinh trùng, vi khuẩn, virus và bacteriophage từ tôm bệnh, nhưng các kết quả nghiên cứu cho thấy kí sinh trùng, virus không là tác nhân gây hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm nuôi. Sự hiện diện của vi khuẩn, nhất là một số loài giống Vibrio như V.parahaemolyticus, V. harveyi…chiếm thành phần chủ yếu ở hầu hết các mẫu tôm giống, tôm nuôi thương phẩm có hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính, cùng với việc cảm nhiễm nhân tạo có kết quả khi dùng Vibrio là nguồn lây nhiễm, cho thấy Vibrio có thể là tác nhân hội chứng hoại tử gan tụy ở tôm. Thực nghiệm cho thấy khi chỉ dùng Vibrio là nguồn gây nhiễm không luôn mang kết quả, cùng với phát hiên phage ở Vibrio và thực nghiệm lây nhiễm kết hợp Vibrio bổ sung phage có kết quả cho thấy có thể Vibrio cùng với phage là tác nhân trực tiếp gây hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm nuôi.
Từ những tổng hợp và phân tích như trên bước đầu xác định được rằng tôm giống với chất lượng xấu (nhiễm Vibrio, có dấu hiệu bất thường gan tụy, thậm chí đã bị hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính), thả nuôi trong điều kiện môi trường bất lợi (có sự hiện diện của thuốc bảo vệ thực vật, oxy hòa tan thấp, độ mặn cao, ô nhiễm hữu cơ…), với sự hiện diện của Vibrio và phage là nguyên nhân dẫn đến tôm chết sớm và hội chứng hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm nuôi. Tuy nhiên cần tiếp tục tiến hành nghiên cứu kỹ càng và sâu hơn nữa mới có thể đưa ra kết luận cuối cùng.