Mật độ và chế độ ăn trùn chỉ để cá bảy màu đơn tính đạt năng suất cao
Mật độ nuôi và cách cho ăn trùn chỉ khi nuôi cá bảy màu đơn tính trong hệ thống nuôi tuần hoàn RAS.
Cá bảy màu Poecilia reticulata là một trong những loại cá cảnh có màu sắc và hình thái rất đẹp, đây là loài cá cảnh dễ nuôi không cần oxy những vẫn đẻ nhiều, lên màu đẹp đặc biệt là cá đực. Đã có nhiều nghiên cứu cứu đực hóa loài cá cảnh này vì giá cá đực cao hơn hẳn giá cá cái bằng cách cho cá mẹ thức ăn trộn spironolacton (SP) 5 – 14 ngày trước khi đẻ hoặc ngâm chúng ngay sau khi được sinh ra trong nước có pha SP cho hiệu suất đực hóa bằng 66,55 - 73,27%.
Ngoài ra, nhiệt độ còn là một trong những yếu tố liên quan đến tỷ lệ đực và cái. Khi chúng ta nuôi cá 7 màu trong môi trường nước có nhiệt độ cao >= 28oC thì cá mái đẻ cá con có giới tính cái ít hơn cá đực. Khi cá được nuôi trong môi trường nước với nhiệt = 22.5 độ thì tỉ lệ cá mái sẽ nhiều hơn cá đực. Nhiệt độ lý tưởng để cá mái 7 màu đẻ ra cá con đực và cái cân bằng là vào 25, 26oC.
Về dinh dưỡng cho cá cảnh, trùn chỉ là thức ăn tự nhiên và yêu thích của hầu hết các loài cá ăn đáy và đặc biệt là cá cảnh. Theo Giere và Pfannkuche (1982) thì trùn chỉ có giá trị dinh dưỡng cao 5575 cal/g trọng lượng khô. Đặc biệt, trùn chỉ có kích thước cơ thể nhỏ (trùn chỉ trưởng thành dài 5cm, đường kính cơ thể chỉ vài mm), vừa với cỡ miệng cá bột của nhiều loài cá, ấu trùng của giáp xác (cua đồng, tôm càng xanh). Thêm vào đó, thành cơ thể của trùn chỉ mỏng không có vỏ ngoài bảo vệ, là con mồi dễ tiêu hóa.
Mục đích của nghiên cứu này là xác định mật độ nuôi tối ưu, ảnh hưởng của việc cho ăn trùn chỉ (Tubifex tubifex) nuôi đơn tính và kết hợp đối với năng suất tăng trưởng của cá bảy màu (Poecilia reticulata) trong hệ thống tuần hoàn RAS.
Ba thí nghiệm riêng biệt được thực hiện bể thủy tinh hình trụ 200 L/bể, ở tốc độ luân chuyển nước 1,5/ h ở nhiệt độ 26°C.
Trong thí nghiệm 1, cá (2,71cm và 0,21g) được nuôi 100 ngày với mật độ (1, 2, 3 và 4 con / L). Kết thúc thí nghiệm cá đạt chiều dài 4,56–4,99 cm và trọng lượng 1,28–1,83 g vào cuối thời gian và nghiệm thức 3 con/L được coi là mật độ tối ưu cho các thí nghiệm sau.
Trong thí nghiệm 2, cá có trọng lượng (2,68 cm và 0,20 g) được cho ăn trùn chỉ (0, 1, 2 và 3 ngày/tuần) trong thời gian nuôi 80 ngày. Kết thúc thí nghiệm,tăng trưởng của cá được tăng lên (4,25–4,47 cm và 0,96–1,26 g) và tăng trưởng tốt nhất đạt được ở nghiệm thức cho ăn trùn chỉ 3 ngày/tuần .
Trong thí nghiệm 3, cá (3,20cm và 0,27g) phát triển tốt hơn đáng kể trong nuôi đơn tính (4,47 cm, 1,09 g) so với nuôi hỗn hợp (4,32 cm, 1,01 g) trong thời gian nuôi 80 ngày. Ngoài ra, ở cả hai kiểu nuôi, năng suất sinh trưởng của con cái cao gấp đôi con đực (P 0,05).
Như vậy, mật độ thả nuôi tối ưu RAS nuôi cá bảy màu (Poecilia reticulata) cho đến khi kích thước thị trường là 3 con/L.Cung cấp trùn chỉ 3 ngày/tuần và nuôi đơn tính sẽ cho tốc độ tăng trưởng cao nhất. Hệ thống RAS hỗ trợ tỷ lệ sống sót trên 99% với SGR là 2%/ngày cho đến khi đạt kích thước thị trường 1,55 g và 4,78 cm trong 100 ngày.
Các kết quả hiện tại rất hứa hẹn mang lại năng suất cao hơn trên một đơn vị diện tích cũng như nuôi cá bảy màu ở các vùng khí hậu cận nhiệt đới và thậm chí ôn đới bằng cách sử dụng hệ thống nuôi RAS khép kín.
The effects of stocking density, Tubifex feeding and monosex culture on growth performance of guppy (Poecilia reticulata) in a closed indoor recirculation system by Selçuk Görelşahin, Mahmut Yanar, Metin Kumlu.