TIN THỦY SẢN

Một hệ thống sản xuất tôm với tỉ lệ sống lên tới 85%

Một kiểu hố xi phong giúp loại bỏ chất thải ra khỏi ao nuôi tôm. Ảnh: slidesharecdn VĂN THÁI (Lược dịch)

Trong bài trình bày tại Hội nghị Hiệp hội Nuôi trồng Thủy sản Thế giới ở New Orleans, Louisiana, Hoa Kỳ, vào ngày 8 tháng 3 năm 2019 Robins McIntosh đã đưa ra quan điểm của mình về an toàn sinh học và đưa ra ví dụ về một hệ thống sản xuất tôm với tỉ lệ sống lên tới 85%.

Trước khi bạn thiết kế trại nuôi an toàn sinh học, hãy tự hỏi mình những câu hỏi sau:

• Tác nhân gây bệnh đã gây ra những vấn đề gì cho bạn?

• Nó xâm nhập vào nước của bạn ở đâu và như thế nào?

• Tác nhân gây bệnh truyền bệnh theo chiều dọc? Hay theo chiều ngang?

• Nó có lây nhiễm không?

• Những phương pháp nào có thể có sẵn để loại bỏ nó? Để giữ cho nó khỏi lây lan?

• Nó có thể tồn tại trong ao bao lâu?

• Mầm bệnh phải tăng lên một mức nhất định trước khi nó bắt đầu gây bệnh cho tôm?

• Các thông số môi trường trong ao của bạn có làm cho bệnh lây lan không?

Nếu không có câu trả lời cho những câu hỏi này, sẽ rất khó để xây dựng một kế hoạch an toàn sinh học khả thi. Chúng tôi thấy rằng thật khó khăn với các mầm bệnh do vi khuẩn như EMS và AHPND bởi phương án loại trừ không hiệu quả với chúng.

Loại trừ và giới hạn mầm bệnh

Ngày nay, an toàn sinh học trang trại nuôi tôm có hai giai đoạn: loại trừ và hạn chế mầm bệnh. Loại trừ có nghĩa là loại bỏ vật mang mầm bệnh ra khỏi ao của bạn. Nhưng nếu mầm bệnh là vi khuẩn hoặc độc tố, chúng ta không thể loại trừ nó; mà phải giới hạn số lượng của nó dưới ngưỡng gây bệnh.

Khi bạn tạo kế hoạch an toàn sinh học, điều đầu tiên bạn nên nghĩ đến là tôm giống postlarvae (PL). Nghĩ lại về các vấn đề bệnh tật trong những năm 1980, hầu hết các bệnh đã xâm nhập vào ao thông qua tôm giống làm vụ nuôi thất bại hết lần này đến lần khác. Tôi ước tôi sớm biết được cách thức mầm bệnh vào ao. Mãi đến năm 1996, tôi mới có cơ hội thay đổi một vài thứ, và đó là khi tôi bắt đầu sử dụng tôm giống SPF (tôm giống không nhiễm một số bệnh cụ thể như: WSSV, YHV, TSV, IHHNV, BPV, HPV cũng như ký sinh trùng, gregarine, giun tròn (nematodes) và censtodes). Sự khác biệt thật rõ ràng khi tôi kết hợp sử dụng tôm giống sạch bệnh SPF trên các ao nhỏ hơn, tôi đã đạt được thành công hoàn toàn. Từ thời điểm đó, tôi nhận ra rằng tất cả an toàn sinh học bắt đầu từ tôm bố mẹ và postlarvae.

Sử dụng tôm giống sạch bệnh SPF đối với tôi là một điều bắt buộc tuyệt đối. Mô hình an toàn sinh học loại trừ hoạt động tốt khi mầm bệnh là virus, vi khuẩn nội bào, microsporidia và nấm. Tuy nhiên khi hoại tử gan tụy cấp (APHNDs) bùng phát, biện pháp loại trừ vật mang bệnh không ảnh hưởng đến sự lây lan của nó. Đầu tiên, mọi người đều nghĩ rằng postlarvae đang gây ra vấn đề. Tuy nhiên vấn đề thực sự là do chúng ta không hiểu về căn bệnh này, vì vậy không thể tạo ra an toàn sinh học. Phương pháp khử trùng không hoạt động trên các bào tử microsporidian. Bạn phải sử dụng siêu lọc để lọc nước, tuy nhiên nó là một giải pháp tốn kém. Nếu bạn muốn ngăn chặn Enterocytozoon hepatopenaei (EHP), mầm bệnh vi bào tử trùng trên tôm, bạn sẽ phải xem xét sử dụng siêu lọc kích thước dưới 1 micrô

Với bệnh đầu vàng, việc loại trừ chỉ có tác dụng nếu chúng ta đặt lưới côn trùng trên ao. Chúng ngăn chặn côn trùng mang virus xâm nhập vào nước. 

Mô hình khác mà tôi muốn nói đến là mô hình giới hạn. Loại trừ là tốt cho virus, microsporidia (cần một vật chủ), nhưng đối với vi khuẩn sống tự do và độc tố, biện pháp loại trừ là không khả thi. Điều đầu tiên chúng tôi tìm hiểu về EMS khi bắt đầu phát triển mô hình này là tôm bị bùng phát dịch bệnh khi số lượng vi khuẩn đạt đến một mức nhất định.

Điều này đặt ra về mức độ của vi khuẩn. Đó là lý do tại sao chúng ta nảy ra ý tưởng về hệ thống xi phông để có thể loại bỏ vi khuẩn, giữ đáy ao sạch sẽ, không có vỏ tôm, không có thức ăn dư thừa. Điều đó hạn chế khả năng quần thể vi khuẩn đủ lớn để gây bệnh.

Nguyên tắc an toàn sinh học

Trao đổi nước: Một trong những cách tốt nhất để ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập vào ao của bạn là sử dụng hệ thống nuôi hạn chế trao đổi nước hoặc trao đổi nước bằng không. Ở Châu Á, tôi phát hiện ra rằng hạn chế trao đổi nước chủ yếu được sử dụng để ngăn chặn mầm bệnh. Thật bất ngờ nông dân Thái Lan sử dụng cùng một loại nước cho nhiều lần nuôi.

Máy cho ăn tự động: Máy cho tôm ăn tự động cũng là một phần trong chiến lược an toàn sinh học của tôi bởi vì nếu bạn sử dụng chúng một cách thận trọng, bạn có thể ngăn không cho thức ăn thừa đổ đầy dưới đáy ao. Tôm có thể chết nếu chúng ăn thức ăn dư thừa đã bị vi khuẩn dưới đáy ao xâm chiếm. Vì vậy chúng tôi thường xuyên cho ăn một lượng nhỏ thức ăn. Điều này tiết kiệm tiền và làm cho trang trại hiệu quả hơn.

Giảm mức độ căng thẳng: Nếu bạn giảm mức độ căng thẳng, thì tôm nuôi của bạn có khả năng kháng bệnh cao hơn. Bất cứ điều gì làm dao động nhiệt độ, độ pH và oxy đều có thể gây căng thẳng. Stress làm suy yếu hệ thống miễn dịch và khiến tôm dễ mắc bệnh hơn. Chúng tôi che bóng ao để giảm biến động nhiệt độ và pH, và điều đó làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.

Sục khí là quan trọng: Chúng tôi muốn giữ làm lượng oxy ở mức 6 phần triệu. Bất cứ điều gì dưới ngưỡng đó thì vật nuôi đều có khả năng bị bệnh.

Đáy bẩn: Tôi đã học được rằng việc giữ đáy sạch sẽ giúp cho EMS không đạt đến mức độ gây bệnh. Bên cạnh đó có một số thứ tích tụ dưới đáy là sunfua, chất hữu cơ đáng ghét và vi khuẩn - tất cả đều là những kẻ giết tôm.


Các hệ thống này sản xuất tôm với tỷ lệ sống sót lên tới 85% bởi có hệ thống sục khí đầy đủ, máy cho ăn tự động, cống trung tâm để loại bỏ bùn đáy ao liên tục bùn và lưới che bóng râm để giảm căng thẳng.

Shrimp Farm Biosecurity in Asia: An Evolved and Holistic Approach.  Robins McIntosh.  Presented at the World Aquaculture Society Meeting in New Orleans, Louisiana, USA, on March 8, 2019.    2. Bob Rosenberry, Shrimp News International, March 23, 2018.


VĂN THÁI (Lược dịch)