Nghiên cứu để bảo vệ nguồn lợi thủy sản Hậu Giang
“Ông bà tôi thường kể, cách đây hơn 10 năm, muốn ăn cá, tôm, cứ xuống sông mà xúc là đủ ăn. Vậy mà bây giờ, người dân sống bằng nghề chài lưới cũng bữa thất bữa trúng vì nguồn lợi thủy sản tự nhiên trên các kênh, rạch nội đồng ngày càng hiếm hoi”. Xung quanh câu chuyện nguồn lợi thủy sản, thạc sĩ Lê Kim Ngọc, Chi cục Trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh, vừa mới thực hiện đề tài “Nghiên cứu, đánh giá nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, đề xuất giải pháp bảo vệ và phát triển” để báo động và đưa ra giải pháp cho tình trạng trên.
Theo các số liệu thống kê, nghiên cứu trước đây của Trường Đại học Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang (cũ) có 152 loài thủy sản; sản lượng hàng năm giảm đáng kể, từ năm 2000-2006 từ hơn 1.090kg cá/hộ/năm xuống còn gần 654kg cá/hộ/năm, giảm khoảng 47% so với 10 năm trước. Các loại cá đồng, rắn, rùa, ếch, càng đước, cua đinh, cá còm dần biến mất. Theo niên giám thống kê năm 2014, vào năm 2010, sản lượng thủy sản ở tỉnh đạt 3.048 tấn, đến năm 2014 chỉ còn hơn 2.800 tấn. Nguồn lợi thủy sản cạn kiệt do con người khai thác không hợp lý, dùng xung điện, lưới mắt nhỏ đánh bắt cả cá con. Điều này khiến cho hệ sinh thái mất cân bằng, làm ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội của tỉnh.
Những năm qua, các cấp, các ngành trong tỉnh đã có nhiều động thái để ngăn chặn tình trạng trên như tịch thu dụng cụ đánh bắt cá như xuyệt điện, tháo dỡ lưới mắt nhỏ giăng trên các sông, kênh, rạch. Mới đây, ngày 16-6, Ban Chỉ đạo Bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh Hậu Giang đã tổ chức thả hơn 2 tấn cá các loại, trị giá 190 triệu đồng trên sông Cái Lớn, huyện Long Mỹ. Nguồn lợi thủy sản nhờ đó cũng được tái tạo và làm đa dạng trong tự nhiên.
Ông Nguyễn Văn Lực, ở huyện Long Mỹ, chia sẻ, mấy năm gần đây, ít thấy người ta bắt được cá quý hiếm như cá ngát, cá lăng,... nên biết là nguồn thủy sản đang giảm dần. Việc ngành chức năng tổ chức thả cá tái tạo nguồn lợi thủy sản rất ý nghĩa, vì không những góp phần tạo nguồn thủy sản tự nhiên phong phú, mà còn nâng cao ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ, gìn giữ nguồn tài sản quý của địa phương.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đặng Ngọc Giao cho biết: “Tỉnh Hậu Giang vốn dĩ có nguồn nước ngọt quanh năm, hệ thống kênh rạch chằng chịt nên thủy sản tự nhiên phong phú. Có nhiều loài cho giá trị kinh tế cao như cá bống tượng, cá thát lát cườm, cá chạch lấu, tôm càng xanh, lươn đồng... Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài là rất cần thiết. Để từ kết quả này, ngành nông nghiệp chúng tôi có đánh giá và đề xuất giải pháp kịp thời bảo vệ và phát triển theo định hướng lâu dài cho sự phát triển chung của tỉnh”.
Thạc sĩ Lê Kim Ngọc, chủ nhiệm đề tài, cho biết: “Được Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh xét duyệt đề tài, trong 20 tháng thực hiện, chúng tôi sẽ khảo sát thực tế từ điểm thu mẫu, các đối tượng đánh bắt từ các địa phương, chợ đầu mối. Qua đây sẽ thu thập số liệu, xác định được thành phần, chủng loại thủy sản còn lại trên các sông, kênh, rạch còn lại bao nhiêu, phân bố ở đâu,... hơn nữa, qua đó, chúng tôi cũng điều tra tình trạng đánh bắt chủ yếu của người dân là nông cụ gì đề có những biện pháp ngăn chặn kịp thời”.
Với phương pháp nghiên cứu là thu mẫu tại các điểm ngẫu nhiên trên lát cắt địa lí chạy dọc qua hệ thống sông, kênh, rạch của tỉnh, chủ nhiệm đề tài và nhóm nghiên cứu sẽ thu thập số liệu về 15-20 chủng loại thủy sản quý hiếm, đang có nguy cơ cạn kiệt, phỏng vấn điều tra hộ tham gia khai thác thủy sản về ngư cụ đang sử dụng. Sau đó, các mẫu cá này sẽ được gửi phân tích tại đơn vị có chuyên môn như Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ để lưu mẫu, phân tích, định danh, xác định chỉ số đa dạng sinh học, mức độ phong phú,...
Theo nhận định của nhiều thành viên Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh, kết quả của đề tài sẽ là cơ sở khoa học cho công tác quản lý, khai thác và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho việc định hướng trong công tác phục hồi, tái tạo, nhân nuôi thủy sản cho những năm tiếp theo. Tuy nhiên, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Từ Thanh Dung, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, thì chủ nhiệm đề tài và nhóm nghiên cứu cần xem lại các giải pháp đề xuất phải cụ thể hơn, không mang tính chung chung; nên xem lại hiệu quả kinh tế của đề tài để có thể dễ dàng chuyển giao sau khi kết thúc nghiên cứu.