TIN THỦY SẢN

Phần III: Vi khuẩn gây bệnh trên cá: phân lập trong nước ngọt và mặn

Vi khuẩn gây bệnh trên cá phân lập trong cả 2 môi trường. Nguồn: Flick.com TRỊ THỦY

Đây là những nhóm vi nhuẩn của chủng Pseudomonas spp và Mycobacterium spp, Piscirickettsia salmonis... gây bệnh trên cá được phân lập cả trong môi trường nước ngọt và nước mặn

PHẦN 3: CÁC NHÓM VI KHUẨN ĐƯỜNG RUỘT KHÁC TRÊN CÁ

1.Yersinia ruckeri

Cá bị nhiễm Yersinia ruckeri (Nguồn: Internet)

Yersinia ruckeri là tác nhân gây bệnh trên bệnh đường ruột nguy hiểm (ERM) (Furones và cộng sự, 1993). Bệnh này đã được ghi nhận ở cá hồi, chủ yếu ở cá hồi vân ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Úc và Nam Phi (Tobback và cộng sự, 2007). Y. ruckeri thuộc họ Enterobacteriaceae và là một trực khuẩn Gram âm có khả năng di động. Có tới 25% tổng số cá hồi vân trong quần thể được nhận biết có mang vi khuẩn trong ruột non  (Busch và Lingg,1975).

Con đường xâm nhập của Y. ruckeri đã được nghiên cứu bởi Tobback và cộng sự (2009) sau khi cho nhiễm trùng thực nghiệm. Những nghiên cứu này chứng minh rằng các mang có thể là một con đường quan trọng giúp vi khuẩn xâm nhập. Ngoài ra vi khuẩn có thể tiếp cận với cơ thể bằng nhiều con đường khác, bao gồm da và ruột (Busch và Lingg, 1975; Tobback và cộng sự, 2009).

2.Piscirickettsia salmonis

 

Nội tạng cá bị nhiễm Piscirickettsia salmonis (Nguồn: internet)

Piscirickettsiosis là bệnh do vi khuẩn gây bệnh nội bào Gram âm, Piscirickettsia salmonis, và lần đầu tiên được phân lập từ cá hồi biển được nuôi cấy ở Nam Chile (Fryer và cộng sự.,1990, Garcés và cộng sự., Branson và Diaz-Munoz 1991; Fryer và cộng sự, 1992). Bệnh cũng được quan sát thấy ở các loài cá hồi khác như cá hồi Chinook, cá hồi vân, cá hồi Mascara (Oncorhynchus masou Brevoort) và cá hồi Đại Tây Dương (Fryer và Lannan 1996; Almendras và cộng sự, 1997; Smith et al.1999). Bệnh cũng đã được báo cáo ở Canada, Na Uy và Ireland (Marshall và cộng sự, 1998). Các vi khuẩn giống Piscirickettsia cũng có liên quan đến các bệnh ở loài cá khác. Ví dụ như cá nheo trắng ở biển (Atactoscion noblis Ayres), cá chẽm đen (Dicentrarchus sp.), Cá rô phi (OreochromisSarotherodon spp.) Và cá mập mắt xanh (Panaque suttoni Eigenmann và Eigenmann) (Mauel và Miller, 2002).

Cá hồi Coho và cá hồi Đại Tây Dương trước đây đã được thử nghiệm về sự nhạy cảm của chúng  Rickettsia (Garces và cộng sự., 1991). Tỷ lệ tử vong dao động từ 88% đến 100% ở cả hai loài. Cá Moribund bị thiếu máu, mang và gan nhợt nhạt, lá lách sưng to. Đường tiêu hóa chứa nhiều chất lỏng và không có thức ăn. Thử nghiệm nhiễm trùng P. salmonis qua đường tiêm, miệng và ngâm được so sánh. Kết quả cho thấy các nguy cơ  tử vong cao nhất do nhiễm trùng qua đường miệng. 

3.      Pseudomonas anguilliseptica

Khuẩn lạc Pseudomonas anguilliseptica (Nguồn: wikipedia)

Pseudomonas anguilliseptica là vi khuẩn Gram âm ban đầu được mô tả trong lươn Nhật Bản bị nhiễm khuẩn huyết do xuất huyết. Ở Châu Âu, có rất nhiều loài cá bị bệnh này: cá vây chân đen, cá chít đen (Acanthopagrus schlegeli Bleeker), cá biển châu Âu và cá bơn (Doménech và cộng sự, 1997). P. anguilliseptica cũng được phân lập từ cá hồi bệnh ở Phần Lan (Wiklund và Bylund 1990). Cá bơn cũng đã được chứng minh là nhạy cảm với vi khuẩn trong ổ bụng và tử vong (Magi và cộng sự 2009). Các dấu hiệu lâm sàng của cá bị nhiễm bệnh là sự tràn dịch màng trong khoang  phúc mạc, xuất huyết trên thận và gan, và ruột bị tắc nghẽn có chứa chất dịch màu vàng (Doménech và cộng sự., 1997). Các vi khuẩn có biểu hiện dương tính được phát hiện ở lá lách, ruột, gan, thận, cơ và não. Những thay đổi mô bệnh học đã được nhìn thấy trong ruột bốn ngày sau khi tiêm, bao gồm tăng bạch cầu ở các tế bào biểu mô, và bảy ngày sau sẽ hoại tử nhiễm trùng và phù nề niêm mạc ruột. 

4.      Photobacterium damsela subsp. Piscicida (Pasteurella piscicida)

Khuẩn lạc Photobacterium damsela subsp. Piscicida

Photobacterium damsela subsp. Piscicida, trước đây là Pasteurella piscicida, là một loại vi khuẩn gram âm, không di động và là tác nhân gây bệnh trong máu cá. Bệnh gây ra nhiễm trùng đường huyết, cá bệnh có những vết trắng ở các cơ quan nội tạng. Các ví dụ về các loài bị ảnh hưởng là cá trắm biển châu Âu, cá tuyết, cá ngừ và cá bơn Nhật Bản (Magarinos và cộng sự., 1996). Xét nghiệm huyết thanh học vi khuẩn tạo thành một nhóm đồng nhất. Các báo cáo cho thấy rằng Photobacterium damsela subsp. Piscicida có thể xâm nhập qua đường miệng, vì vi khuẩn này đã được phân lập từ cá ngựa nước ngọt (Channa maculate Lacépède) nuôi với cá biển bị nhiễm bệnh làm thức ăn. Ngoài ra, người ta phát hiện ra rằng P. damsela subsp. Piscicida nhiễm bệnh từ đuôi hoặc thông qua các mang. Cá chình biển tiếp xúc với P. damsela subsp. Vi khuẩn piscicida trong ống phân, phẫu thuật cấy vào khoang bụng gây hoại tử hoại tử ở ruột và niêm mạc mạc ruột sau khi xâm nhập, cùng với các tế bào viêm (Poulos và cộng sự., 2004). 

5.      Nhóm gây Streptococcosis

Streptococcosis là một bệnh nhiễm trùng huyết có ảnh hưởng đến cá nuôi và cá hoang dã nước ngọt. Bệnh đã được báo cáo ở cá bơn đuôi vàng, lươn Nhật, sọc trầm (Morone saxatilis Walbaum), cá đối (Mugil cephalus L.) và cá mòi dầu (Brevoortia patronus Goode) (KusudaandSalati1993; Romalde và cộng sự., 1996) bao gồm Lactococcus garvieae, Lactococcus piscium, Streptococcus iniae, Strep-tococcus agalactiae, Streptococcus parauberis, Enterococcus spp. Các con đường có thể xảy ra nhiễm trùng đã được điều tra bởi tiếp xúc với nguồn nước và tiêm chủng trong dạ dày với thức ăn và phân bị nhiễm một số chủng Enterococcus - phân lập từ cá bơn bệnh (Romalde và cộng sự. 1996). 

6.      Candidatus arthromitus

Là tên của một vi khuẩn Gram âm (SFB), tác nhân gây ra viêm tuyến tiêu hoá cá hồi cầu vân xuất hiện chủ yếu vào mùa hè (Michel và cộng sự, 2002). Căn bệnh này được mô tả lần đầu tiên ở Pháp vào năm 1992 và sau đó là ở Tây Ban Nha, Ý, Anh và Croatia (Del-Pozo và cộng sự, 2009; 2010a). Việc khám nghiệm mẫu cá chết nghi ngờ bị nhiễm RTGE cho thấy có viêm ruột cấp tính với niêm mạc ruột có xuất huyết và tràn dịch màng phổi. Sự thay đổi bệnh lý cũng bao gồm sự tách rời của nhiều lớp niêm mạc dẫn đến sự phơi nhiễm trực tiếp của các chất ở màng tế bào (Del-Pozoetal., 2010). 

7.      Mycobacterium spp.

Mycobacteriosis là một bệnh phổ biến ở cả cá hoang dã và cá nuôi. Trên 167 loài cá đã được ghi nhận là dễ bị nhiễm vi trùng Mycobacteriosis (Jacobs và cộng sự, 2009).

Mycobacterium spp. có thể tồn tại và nhân bản trong các đại thực bào cho phép chúng tránh được hệ miễn dịch của cơ thể. Mycobacteriosis gây ra các vết loét trên da, tế bào hạt bị tổng thương và teo nhỏ. Những u hạt trắng xám phát triển trong gan, thận, lá lách, tim, cơ và ruột.

Hiện nay không có phương pháp chữa bệnh do Mycobacteriosis. Bệnh có thể truyền sang người. Cá nhiễm bệnh giải phóng vi khuẩn khỏi da, mang và đường tiêu hóa. Nhiễm trùng có thể lan truyền khi cá tiếp xúc trực tiếp với vật liệu nhiễm trùng hoặc ăn các mô nhiễm bệnh. Ví dụ về những điều này là từ những năm đầu của ngành công nghiệp cá hồi, nơi mà cá được cho ăn phế thải từ cá không được tiệt trùng sau đó gây ra một vấn đề nghiêm trọng là bệnh mycobacteriosis. Và ghi nhận cá chết và tiến hành thẩm định mô học.

Phân lập vi khuẩn Mycobacterium marinum gây ra 100% cá nhiễm trùng và tỷ lệ tử vong từ 30% đến 100%. Việc lây truyền vi khuẩn có thể xảy ra giữa cá tự nhiên và cá lồng nếu cá hoang dã địa phương có thể tiếp cận lồng nuôi cá, nếu động vật hoang dã thoát khỏi lồng bè vào hệ sinh thái xung quanh hoặc nếu có ô nhiễm qua hệ thống nguồn nước. 

 

Cá bị nhiễm Mycobacterium spp.

TRỊ THỦY