Rủi ro công nghệ Biofloc
Ngành nuôi trồng thủy sản nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, cải tiến công nghệ là vấn đề luôn được quan tâm. Tuy nhiên, bùng phát công nghệ theo kiểu phong trào có đảm bảo được hiệu quả? Biofloc du nhập vào Việt Nam khi dịch bệnh EMS bùng phát, là công nghệ thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư thủy sản Việt Nam, nhưng dường như biofloc chưa được quan tâm đúng mức.
Công nghệ biofloc cơ bản được Giáo sư Yoram Avnimelech khởi xướng ở Israel và do Robins McIntosh thực hiện đầu tiên trong nuôi tôm thương phẩm ở Belize. Một số nước trên thế giới như Israel, Indonesia…đã nghiên cứu và thực nghiệm thành công công nghệ này…đạt sản lượng cao trên cả tôm và cá rô phi.
Biofloc là một khối tập hợp các loại tảo đơn bào, tảo đa bào, phân, mảnh vụn thức ăn, xác vi sinh vật, vi khuẩn và kể cả động vật không xương sống có kích thước nhỏ. Kích thước floc khoảng 0,1 -2mm.
Hàm lượng dinh dưỡng cao, giàu amino acid. Floc đạt yêu cầu nhỏ hơn 15ml/l nước. Tôm cá sẽ sử dụng khối vi khuẩn này để làm thức ăn, do đó FCR giảm thấp và chi phí thức ăn cũng giảm.
Dù vậy, cần lưu ý vấn đề kiểm soát hàm lượng vi khuẩn trong ao nuôi. Lượng vi khuẩn phát triển trong ao cũng khó biết được là vi khuẩn có lợi hay vi khuẩn có hại. Môi trường nước trong công nghệ biofloc có đảm bảo lượng vi khuẩn phát triển hoàn toàn là vi khuẩn có lợi hay không. Nếu vi khuẩn có hại phát triển thì sẽ gây hại đến sức khỏe tôm cá. Thậm chí tỉ lệ chết còn tăng lên khá nhanh so với dịch bệnh EMS. Vậy công nghệ biofloc có thực sự tốt cho tôm cá nuôi?
Hệ thống biofloc hoạt động dựa theo nguyên lí vi khuẩn dị dưỡng ăn vật chất hữu cơ. Vi khuẩn sẽ tiêu thụ năng lượng và hàm lượng oxy hòa tan để phát triển. Do đó, ao sử dụng công nghệ này phải được sục khí liên tục 24 giờ/ngày. Vị trí lắp đạt quạt nước phải được tính toán kĩ lưỡng để đảm bảo đượckhả năng tạo khối vi khuẩn. Đây cũng là điểm hạn chế trong công nghệ này, tốn nhiều tiền cho nhiên liệu, tôm cá có thể chết nếu chỉ ngừng quạt nước trong 1 giờ.
Thông thường, hàm lượng nitơ trong ao đủ cho tôm cá sử dụng, nhưng đối với hệ thống biofloc, phải đảm bảo được tỉ lệ C/N trên 10. Người ta thường bổ sung mật rỉ đường, tinh bột hay ngũ cốc ép viên. Việc kiểm soát hàm lượng Carbon, Nitơ trong ao là rất khó, không thể điều chỉnh theo tỉ lệ tối ưu như các nghiên cứu đã làm.
Ao nuôi theo công nghệ biofloc phải được lót bạc và lượng nước trao đổi bị hạn chế, ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Tuy không tốn kém về chi phí thức ăn nhưng với chi phí thực hiện như vậy thì giá thành đầu ra sẽ khá cao, sản phẩm nuôi khó cạnh tranh trên thị trường.
Nếu thực hiện biofloc theo đúng mô hình tiêu chuẩn của nó sẽ mang lại nhiều lợi ích đáng kể. Biofloc có thể giúp kiểm soát được lượng nitrogen trong ao nuôi, cải thiện được tăng trưởng vật nuôi, môi trường nước ổn định, giảm sức tải sinh học, giảm chi phí sản xuất và gia tăng lợi nhuận do có thể nuôi ở mật độ rất cao.
Đòi hỏi công nghệ kĩ thuật cao, và quản lí môi trường tốt, công nghệ biofloc tuy có mới, nhưng chưa chắc đạt hiệu quả khi áp dụng ở Việt Nam. Việt Nam đang trên đà phát triển, nhưng vẫn chưa đủ mạnh để chạy theo các công nghệ hiện đại như vậy trong khi khâu quản lí còn nhiều bất cập, và trình độ kĩ thuật chưa được nâng cao
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Biofloc technology của giáo sư Yoram Avnimelech, Israel Institute of Technology Haifa, Israel.
2. Biofloc Technology (BFT): A Review for Aquaculture Application
and Animal Food Industry, Maurício Emerenciano, Gabriela Gaxiola and Gerard Cuzon.
3. BIOFLOC-BASED SHRIMP CULTURE SYSTEMS: ADVANTAGES, CHALLENGES, AND THE STATE OF CURRENT RESEARCH, Andrew J. Ray and John W. Leffler.
4. BIO-FLOC CÔNG NGHỆ MỚI ỨNG DỤNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN PGs. Ts. Nguyễn Văn Hòa, Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ
5. Những phát triển gần đây trong công nghệ Biofloc Viết ngày 02/10/2012, www.atcvietnam.com.vn
6. Công nghệ biofloc cho nuôi trồng thủy sản THƯƠNG MẠI THỦY SẢN - Số 155 Tháng 11/2012