Sóc Trăng: Khuyến cáo không nên tiếp tục thả giống tôm
Theo chi cục thủy sản Sóc Trăng hiện tại các yếu tố môi trường ngoài tự nhiên như độ mặn, độ kiềm, độ trong, oxy… và thời tiết đã không còn thích hơp để nuôi tôm nước lợ, đồng thời đã hết lịch thả giống của ngành kết thúc ngày 30/09/2018 theo Thông báo số 02/TB-SNN ngày 09/01/2018 của Sở Nông nghiệp và PTNT. Đề nghị bà con không nên thả giống mới.
Hiện nay, Theo kết quả quan trắc các yếu tố môi trường vùng nuôi của Chi cục Thuỷ sản: các yếu tố môi trường ngoài tự nhiên như độ mặn, độ kiềm, độ trong, oxy… và thời tiết đã không còn thích hợp để nuôi tôm nước lợ, dịch bệnh trên tôm diễn biến phức tạp, đồng thời đã hết lịch khung mùa vụ thả nuôi theo khuyến cáo của Ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Do đó, khuyến cáo bà con không nên tiếp tục thả giống mới, tập trung quản lý diện tích tôm nuôi hiện tại trên đồng, cải tạo diện tích ao nuôi bị thiệt hại do dịch bệnh chuẩn bị cho vụ nuôi năm 2019. Đối với các cở sở có đủ điều kiện công trình ao nuôi, cơ sở hạ tầng đảm bảo (lót bạt, lưới che, ao dự trữ nước, độ mặn cao, 2 giai đoạn…) và khả năng chăm sóc quản lý tốt có thể ứng phó với thời tiết cực đoan thì có thể thả giống tiếp tục nhưng với mật độ thả thấp hơn chính vụ. Những ao không có điều kiện thả lại tôm thì bà con cần trồng lại lúa (Mỹ Xuyên) hoặc cần thả các đối tượng khác như cá rô phi, trắm cỏ, tôm càng xanh …để xử lý và ổn định về môi trường, có thời gian cách ly mầm bệnh chuẩn bị tốt hơn cho vụ tôm nước lợ năm 2019.
Theo kết quả quan trắc:
- Nhiệt độ nước: Dao động từ 29.0-32oC, nằm trong ngưỡng cho phép.
- Độ mặn: Tất cả các điểm đã ngọt lại 0‰. Thấp hơn cùng kỳ năm 2017 từ 2-3‰ tại Vàm Trà Nho và Cống Trà Nõ và khu vực 3 cống Trần Đề.
Rounded Rectangle: ‰- Độ pH: Tất cả các điểm đều có độ pH nằm trong ngưỡng dao động 7.0-7.5.
- Độ Kiềm: Hầu hết các điểm đều có độ kiềm nằm trong ngưỡng dao động từ 61-132 mg/l. Riêng tại Chàng Ré và Cù Lao Dung có độ kiềm thấp dưới 38-45 mg/l.
- Độ trong: Khu vực Vĩnh Châu , Mỹ Xuyên (Cầu Treo, Hòa Lý) và Trần Đề có độ trong thấp dao động từ 3-15 cm.
- Oxy hòa tan: Khu vực Vĩnh Châu (Cầu Trà Niên, Đầu Vàm Trà Niên, Kênh Vĩnh Châu) và Mỹ Xuyên có hàm lượng oxy thấp 2.6-3.3 mg/l. Các điểm còn lại có oxy trong ngưỡng từ 3.8-5.3 mg/l.
Hiện tại đang trong mùa mưa nên ao nuôi thường đối diện với 2 hình thế thời tiết là nắng nóng và mưa dầm đột ngột sẽ làm cho môi trường ao nuôi dễ biến động (chênh lệch nhiệt độ, tuột kiềm, sụp tảo, khí độc bùng phát,...) làm cho tôm dễ stress và dễ nhiễm bệnh. Do đó cần quản lý theo dõi thật chặt chẽ đặc biệt 03 yếu tố môi trường : (1) độ pH (đo và chuẩn lại độ pH sau những cơn mưa kéo dài);
(2) độ Kiềm nên giữ độ kiềm từ 100 mg/l trở lên; (
3) Giữ hàm lượng oxy hòa tan ≥5 mg/l, thường oxy thấp nhất là vào nữa đêm đến gần sáng. Đồng thời chuẩn lại các thông số môi trường khác trong ao tôm sao cho nằm trong ngưỡng thích hợp và ổn định cho tôm nuôi.
- Bắt giống phải có giấy kiểm dịch và xét nghiệm các mầm bệnh nguy hiểm trên tôm (Đốm trắng, gan tụy cấp, Còi (EHP, MBV), TSV...) và phải thực hiện thuần dưỡng cho quen dần với 4 yếu tố đó là pH, nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm trong bọc giống với nước ao nuôi ít nhất 1 giờ rồi mới thả. Chỉ thả giống khi nhiệt độ trong ao 30oC (sáng sớm hoặc chiều mát).
- Thường xuyên theo dõi các biểu hiện bên ngoài của tôm (gan, ruột, mang...) để có biện pháp xử lý sớm và chữa trị kịp thời. Thường xuyên kiểm tra sự xuất hiện của vi khuẩn Vibrio sp trong ao nuôi để có biện pháp diệt khuẩn hoặc dùng vi sinh khống chế kịp thời, thường kiểm Vibrio 1-2 lần/tuần từ ngày thứ 20 trở đi. Mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước ao nuôi tôm nên duy trì 400 khuẩn lạc/ml để hạn chế bệnh chết sớm EMS và các bệnh do vi khuẩn Vibrio gây nên. Bổ sung các vitamin, CPSH, Beta-Glucan…vào thức ăn giúp tăng cường sức đề kháng trên tôm và chống chọi thời tiết cực đoan.
*Lưu ý: Đối với các bệnh do tác nhân là virus (điển hình là bệnh đốm trắng -WSSV) hiện nay chưa có thuốc điều trị; đối với các bệnh do tác nhân là vi khuẩn (điển hình là bệnh hoại tử gan-EMS/AHPND) có khả năng điều trị được nếu tỉ lệ tôm bệnh 30%. Kháng sinh không có tác dụng tăng sức đề kháng hoặc phòng bệnh trên tôm và điều trị kém hiệu quả, dễ kháng-kháng sinh nếu không có phát đồ điều trị đúng, dễ mất an toàn thực phẩm do tồn lưu kháng sinh trong tôm nuôi khi xuất bán. Không sử dụng hóa chất kháng sinh cấm để nuôi tôm.
Quản lý cho ăn vừa đủ:
Tôm nuôi nhất là tôm thẻ là loài rất háo ăn, tôm là loài ruột thẳng, tiêu hóa và hấp thụ chỉ 30-40% lượng thức ăn và 60-70% lượng thức ăn còn lại thải ra ngoài ở dạng phân tôm, gây ô nhiễm hữu cơ, tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại, khí độc và tảo độc phát triển. Do đó nên cho tôm ăn ít, vừa đủ khoảng 80-90% lượng khuyến cáo/bảng cho ăn thông thường. Đối với ao thả mật độ thưa thì ban đầu nên gây tạo nhiều thức ăn tự nhiên (Copepoda/trứng nước) và trong giai đoạn đầu (trước 20 ngày) nên cho tôm ăn ít và hạn chế tối đa lượng thức ăn cho tôm ăn. Những ngày trời lạnh, âm u, mưa dầm nên chủ động giảm 30-50% lượng thức ăn sau đó cho ăn lại bình thường khi thời tiết tốt. Đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan trong nước ≥ 5 mg/l để giúp tôm khỏe và tiêu hóa chuyển hóa tốt thức ăn. Không nên sử dụng kháng sinh trộn cho tôm ăn để chữa trị hoặc phòng bệnh mà nên sử dụng các loại CPSH hoặc các loại thảo dược như tỏi, trái cau, lá ổi, cây mật gấu, diệp hạ châu… để phòng ngừa bệnh đường ruột và gan tụy.
* Lưu ý:
Bà con cần chủ động đo đạc các yếu tố môi trường trong ao nuôi, đồng thời theo dõi sát kết quả quan trắc môi trường nước cũng như thông tin cảnh báo dịch bệnh, thông tin về bản tin thời tiết, giải pháp khuyến cáo của ngành chức năng để có cách xử lý ao tôm kịp thời, chủ động ứng phó với thời tiết cực đoan.
Hiện nay thị trường tôm trên thế giới không những cạnh tranh về sản lượng mà còn cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh về giá thành làm ra sản phẩm (chi phí sản xuất) do đó nuôi tôm bà con hạn chế tối đa việc lạm dụng thuốc hóa chất vào ao tôm và quản lý cho ăn vừa đủ, tiết kiệm thức ăn, tiết kiệm điện, chủ động kết nối liên kết tất cả các vật tư đầu vào (giống, thức ăn, thuốc men, bạt phủ, lưới che, cánh quạt,…) cũng như liên kết đầu ra nhằm giảm tối đa giá thành sản xuất và nâng cao giá trị sản phẩm.