Sử dụng monoglycerides kiểm soát ANPNS / EMS
Framelco, một công ty phát triển sản phẩm để thay thế kháng sinh trong các trang trại, đã phát triển một công thức monoglycerides-1 để kiểm soát AHPNS / EMS. Một số thử nghiệm trong phòng thí nghiệm và thử nghiệm thực địa đã chỉ ra rằng sản phẩm monoglycerides-1 có chứa hoạt tính diệt khuẩn chống lại Vibrio parahaemolyticus. Nghiên cứu này được tiến hành nghiên cứu tác động của monoglycerides-1 trên tôm sống với một chủng độc lực của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.
Nguồn từ Đại học Arizona (UAZ) trong 4 loại khẩu phần thức ăn cung cấp cho tôm Littopenaeus vannamei trong khoảng thời gian 10 ngày có một khẩu phần ăn có chứa sản phẩm được cung cấp bởi Framelco, sau đó cho tôm tiếp xúc bằng miệng với chủng độc lực của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus (tác nhân gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính, AHPNS/EMS) để xác định xem các sản phẩm sẽ có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống. Tỷ lệ sống khi kết thúc thí nghiệm ở nhóm cho ăn trộn monoglycerides-1 dạng khô là 3% ; tỷ lệ sống ở nhóm trộn thức ăn với monoglycerides-1 dạng lỏng ("Fra® Shrimp Protect Liquid") là 93%. Tỷ lệ sống ở nghiệm thức đối chứng có vi khuẩn là 13% và tỷ lệ sống ở thí nghiệm đối chứng là 100%.
Nguồn tôm của nghiên cứu: Tôm sử dụng trong nghiên cứu này được cung cấp bởi UAZ và được lấy từ dòng đầu của hệ thống cải thiện tôm. Tổng cộng có 180 SPF (tôm miễn nhiễm tác nhân gây bệnh AHPNS/EMS) tôm thẻ chân trắng được chuyển từ trang trại SPF UAZ West Campus và thả vào 12 bể 90 lít, mỗi bể 15 con. Tám bể được cho ăn chế độ ăn phối hợp với các sản phẩm Framelco (hai bể cho mỗi sản phẩm). Hai bể đã được chỉ định là đối chứng không dùng sản phẩm Framelco và hai bể đối chứng về môi trường. Bể đối chứng được cho ăn một chế độ ăn uống kiểm soát không chứa các sản phẩm Framelco và gây bệnh với Vibrio parahaemolyticus để so sánh tỷ lệ sống. Bể kiểm tra đối chứng về môi trường cũng được cho ăn chế độ ăn được kiểm soát, nhưng không gây cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Tất cả các bể được cho ăn với chế độ ăn của mỗi bể ở mức 5% trọng lượng tôm mỗi ngày trong suốt thời gian nghiên cứu. Mỗi bể được lắp đặt với một bộ nước bằng vỏ sò, sục khí và được bao phủ bằng nhựa để giảm nguy cơ lây nhiễm chéo và cô lập các hoạt động trong từng khu riêng biệt và cho ăn trước khi những bể này gây cảm nhiểm với Vibrio parahaemolyticus. Tổng cộng, bốn nghiệm thức khác nhau đã được nghiên cứu; báo cáo này chỉ tập trung vào hai trong bốn nghiệm thức.
So với nghiệm thức đối chứng, việc trộn vào thức ăn monoglyceride-1 dạng lỏng giảm tỷ lệ tử vong 80%. Nghiệm thức trộn thức ăn với monoglyceride-1 dạng khô không làm giảm tỷ lệ tử vong, do đó cần phải được trộn vào thức ăn monoglycerides ở dạng lỏng trước khi tạo hình viên thức ăn để tăng cường hấp thu sinh học trong tôm. Người ta cho rằng monoglycerides dạng khô sẽ đi qua ruột quá nhanh cho nên chưa có tác dụng. Tiếp tục nghiên cứu là cần thiết để kiểm tra tiềm năng của công thức chất lỏng này trong lĩnh vực nuôi tôm.