Tìm hướng tăng trưởng bền vững cho ngành thủy sản
Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 6,1 tỷ USD, góp phần giảm nhập siêu cho toàn ngành nông nghiệp và ổn định đời sống cho hơn bốn triệu lao động. Thời điểm hiện tại, ngành thủy sản đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ nuôi trồng, đánh bắt, đến chế biến và xuất khẩu... Chính vì vậy, ưu tiên các gói hỗ trợ ngành thủy sản là hết sức cấp bách.
Dân thua lỗ, doanh nghiệp điêu đứng
Theo số liệu của Vụ Nuôi trồng thủy sản, Tổng cục Thủy sản Việt Nam, tính đến hết tháng 6-2012, diện tích tôm bị chết do dịch bệnh tại đồng bằng sông Cửu Long lên tới 40 nghìn ha, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Các tỉnh bị thiệt hại nhiều nhất là Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu... Nhiều nông dân thua lỗ nặng nề sau vụ tôm này và khó có khả năng vực dậy, nếu không được sự hỗ trợ về vốn. Trong khi đó, ngành sản xuất và kinh doanh cá tra đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ dây chuyền khi toàn bộ chuỗi sản xuất bị thu hẹp và đình đốn, giá giảm, đối tác mua hàng ép giá. Lượng cá tra tồn đọng trong dân có thời điểm lên tới 200 nghìn tấn, người nuôi đứng ngồi không yên. Ở các tỉnh phía bắc, dịch bệnh trên thủy sản cũng hoành hành không kém, khiến người nuôi thua lỗ nặng nề. Ðiển hình là tại Vân Ðồn (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), thời gian qua tu hài chết hàng hoạt với số lượng lớn, thiệt hại nặng nề. Riêng ở Vân Ðồn, ước tính lên đến hàng trăm tỷ đồng. Giám đốc Trung tâm khoa học, kỹ thuật và sản xuất thủy sản Quảng Ninh Nguyễn Quang Huy cho biết: Thực trạng tu hài chết ở Vân Ðồn không những chỉ gây thiệt hại về tiền của trước mắt mà còn kéo dài, vì ít nhất phải hai năm sau, người dân vùng này mới có thể trở lại nuôi tu hài để tránh sự bùng phát mạnh hơn của dịch bệnh. Nghề nuôi tu hài đã góp phần xóa đói, giảm nghèo, làm giàu cho nhiều hộ gia đình, nay sản xuất, kinh doanh bị đình trệ sẽ kéo theo rất nhiều hệ lụy về đời sống kinh tế của người dân.
Trong khi người nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại do dịch bệnh, sản phẩm tồn đọng thì các doanh nghiệp cũng khốn đốn hơn bao giờ hết. Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), từ đầu năm đến nay đã có hơn 400 doanh nghiệp trong tổng số 800 doanh nghiệp thủy sản buộc phải chấp nhận "đổ vỡ", nặng nề nhất là các doanh nghiệp cá tra. Khoảng 80% số doanh nghiệp cá tra rơi vào tình trạng phá sản, chỉ còn 20% số doanh nghiệp trụ được thì phải tìm mọi cách bán hàng ra để quay vòng vốn, kể cả ồ ạt chào bán sản phẩm với giá thấp ở phần lớn các thị trường. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp không những không tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng mà còn bị các ngân hàng thúc ép siết nợ vay trước đó, trong khi thị trường xuất khẩu đang gặp nhiều khó khăn, nhất là ngày càng bị thu hẹp. Những thị trường xuất khẩu chủ lực như châu Âu, Hoa Kỳ bị sụt giảm mạnh do khủng hoảng tài chính. Tại châu Á, các thị trường lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc cũng có không ít trở ngại do doanh nghiệp phải đối mặt với các cảnh báo về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Baseafood) Nguyễn Công Huyên cho biết: "So với năm 2011, những tháng đầu năm nay, các hợp đồng xuất khẩu của công ty đều bị cắt giảm. Một phần do chính các thị trường bên nhập cắt vì khủng hoảng tài chính, phần khác do công ty phải điều tiết hợp đồng để có đủ vốn thu mua nguyên liệu chế biến".
Vốn cần, nhưng quy hoạch cần hơn
Ưu tiên các gói hỗ trợ ngành thủy sản là quan điểm chung của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám cho biết: Bộ đã trình Chính phủ các gói giải pháp hỗ trợ người nuôi và doanh nghiệp chế biến cá tra. Gói thứ nhất nhằm tập trung giải quyết khó khăn cho người nuôi về vốn để tiếp tục duy trì lượng cá tra đã thả nuôi từ nay đến cuối năm. Gói thứ hai nhằm hỗ trợ doanh nghiệp mua cá tra nguyên liệu của những hộ nuôi có ký hợp đồng. Gói thứ ba hỗ trợ cho doanh nghiệp chế biến có vùng nuôi. Mức hỗ trợ cụ thể đang chờ Chính phủ quyết định. Ðối với các doanh nghiệp thủy sản khác, theo VASEP, hiện có tới 90% số doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn khẩn cấp để khôi phục sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, trong đó nhu cầu vay thấp nhất là 10 tỷ đồng, cao nhất là 500 tỷ đồng. Có vậy, doanh nghiệp mới duy trì được sản xuất, chờ cơ hội, đầu tư các vùng sản xuất nguyên liệu. Do đó, các ngân hàng cũng cần xem xét khoanh nợ, giãn nợ, tiếp tục hỗ trợ cho các doanh nghiệp làm tốt, có đầu tư chiều sâu, có thương hiệu để tăng cường sản xuất, tạo việc làm cho công nhân và giữ vững thị trường xuất khẩu. Quyết định 857/QÐ-NHNN ngày 2-5-2012 của Ngân hàng Nhà nước mở rộng cánh cửa cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản khi doanh nghiệp được vay ngoại tệ (chủ yếu là USD) với lãi suất rẻ hơn VNÐ nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn trong nước. Tuy nhiên, theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Việt Nam Phạm Anh Tuấn: Bảo đảm nguồn vốn tín dụng cho người nuôi và các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản trong lúc này là việc làm cần thiết để cứu các doanh nghiệp khỏi tình trạng đình đốn, phá sản. Nhưng về lâu dài, điều cần hơn lại chính là quy hoạch ngành thủy sản bao gồm công tác tổ chức sản xuất trên biển, quản lý đầu vào và đầu ra cho sản phẩm, liên kết giữa người nuôi trồng và doanh nghiệp, xây dựng các nhà máy chế biến, quản lý dịch bệnh và sử dụng các chất cấm trong nuôi trồng thủy sản... Còn thực tế hiện nay, mặc dù nước ta nằm trong tốp 5 các nhà cung cấp thủy sản lớn nhất thế giới nhưng vẫn thiếu chiến lược tiếp thị đồng bộ và lâu dài cho toàn ngành. Ngoài ra, thiếu hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ, chính thức trước các thông tin sai lệch về chất lượng, cho nên luôn gặp phải rào cản thương mại của các nước EU - Mỹ. Trong khi đó, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong doanh nghiệp vẫn xảy ra dẫn tới phá giá thị trường. Ðiều này cũng bắt nguồn chính từ sự thiếu quy hoạch vùng trong việc phát triển các nhà máy chế biến thủy sản. Từ năm 2007 đến 2010, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có 190 nhà máy chế biến thủy sản với công suất thiết kế hơn 1,2 triệu tấn/năm. So với năm 2003, số nhà máy tăng 2,3 lần, công suất thiết kế tăng 2,7 lần, trong khi vùng nguyên liệu không được tập trung đầu tư và mở rộng. Hậu quả là các nhà máy thiếu nguồn nguyên liệu cho sản xuất, hoạt động cầm chừng, chỉ đạt từ 30 đến 50% công suất, thậm chí có nhà máy chỉ đạt 10% công suất. Và khi rơi vào tình trạng cạnh tranh gay gắt như hiện nay, số liệu cho thấy có đến 50% số nhà máy phải ngừng hoạt động là lẽ đương nhiên.
Ðể đạt kim ngạch xuất khẩu 6,5 tỷ USD trong năm 2012, hướng đến mốc tám tỷ USD năm 2015 và 10 tỷ USD năm 2020, ngành thủy sản cần có một chiến lược dài hơi với những biện pháp tổng thể, trong đó tập trung tái cấu trúc mạnh mẽ trong toàn ngành, từ doanh nghiệp xuất khẩu đến quy hoạch nuôi trồng. Không xây thêm nhà máy chế biến thủy sản mà tập trung đầu tư công nghệ hiện đại, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao nhằm vừa giải bài toán thiếu nguyên liệu trầm trọng, vừa tăng kim ngạch xuất khẩu cho ngành thủy sản hiện nay. Ðồng thời, giải quyết công ăn việc làm, ổn định đời sống cho lượng lớn lao động trong ngành.