TIN THỦY SẢN

Tôm đóng rong nhớt cách nhận biết và giải pháp

Tôm thường bị đóng vôi, rong nhớt ở phần đầu ngực và các phụ bộ, một số trường hợp mang chuyển sang màu đen. Ảnh: toplinematerial.com Nhất Linh

Tôm bị đóng rong, nhớt thì trên một phần hoặc toàn bộ cơ thể sẽ bị phủ một lớp rong rêu màu xanh đen, khiến tôm hoạt động khó khăn, khó lột vỏ và chậm lớn.

Tuy bệnh này không quá nghiêm trọng như bệnh do virus, vi khuẩn gây ra trên tôm nhưng cũng tác động không nhỏ đến sức khỏe, chất lượng tôm lẫn năng suất ao nuôi.

Làm thế nào để biết tôm bị đóng nhớt

Hiện tượng đóng rong, nhớt trên tôm xảy ra do nhiều vi khuẩn, động vật nguyên sinh, chất vô cơ bám trên bề mặt vỏ tôm. Bệnh xuất hiện ở hầu hết các ao nuôi và thường xuất hiện do môi trường nước ao nuôi dơ bẩn khiến cho rong tảo phát triển quá mức. Bệnh đóng rong trên tôm có thể dễ dàng quan sát và nhận biết dựa trên các dấu hiệu sau đây:

-  Khi chạm vào vỏ tôm sẽ thấy hình thành lớp dịch nhầy, trơn và phần nhớt có màu xanh rêu hoặc màu đen. Nếu vào cuối chu kỳ nuôi thì màu sắc tôm thương phẩm xấu, giảm giá trị.

- Mang và phụ bộ của tôm bị tối màu hoặc thậm chí bị đen,

- Phần thân tôm bị lớp rong có màu xanh hoặc xanh đen phủ đầy.

- Phần đầu, ngực, mang tôm hoạt động kém do bị đóng rong nhớt, ảnh hưởng đến khả năng di chuyển của tôm

- Tôm giảm ăn hoặc có thể bỏ ăn hoàn toàn.

- Tôm bơi lờ đờ tấp mé, một số trường hợp nghiêm trọng dẫn đến lớp vỏ tôm bị hư hạn sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập khiến tôm chết rải rác.

- Tôm có hiện tượng nổi đầu vào sáng sớm và tập trung nơi có nhiều oxy vì phần mang bị che rong che phủ khiến chúng khó hô hấp.

Nguyên nhân

Bệnh đóng rong trên tôm thường do các tác nhân chủ yếu là vi khuẩn (Vibrio sp,…), tảo (tảo lam), vi nấm, ký sinh trùng (Protozoa,…) và động vật nguyên sinh gây nên. Các tác nhân này sẽ bám trên bề mặt vỏ tôm khiến lớp vỏ hình thành lớp rong và có nhớt nhầy nhụa. Đặc biệt đối với tôm trong ao nuôi có sức khỏe kém, chúng sẽ không thể tự làm sạch cơ thể hoặc không thể lột xác bình thường như những cá thể tôm khác ở tự nhiên. Vì vậy mà vỏ tôm thường dễ bị các chất dơ bẩn bám vào. 

Ngoài ra đối với các ao nuôi có nguồn nước dơ bẩn, lượng thức ăn dư thừa cao và đáy ao ô nhiễm, nhiều bùn đáy do cải tạo ao sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của các vi sinh vật bám trên bề mặt vỏ tôm.

Vỏ tôm trơn và bị nhớt, có màu vàng xanh như tảo hoặc màu đen, xám khói

Bên cạnh đó, độ mặn trong ao nuôi quá cao hoặc quá thấp khiến cũng cho tôm không thể lột xác làm cho các chất bẩn tích tụ bám dần (do không thay được lớp vỏ cũ) sẽ gây nên hiện tượng đóng rong trên tôm

Phòng bệnh 

Cải tạo ao kỹ trước lúc thả nuôi, quản lý tốt môi trường, đặc biệt là tránh hiện tượng dư thừa thức ăn. Quản lý tốt sự phát triển của tảo, tránh mật độ tảo quá cao. Ngoài ra, người nuôi cần tăng cường cung cấp ôxy, dinh dưỡng để kích thích tôm lột vỏ.

Trị bệnh 

Nếu phát hiện tôm đã mắc bệnh đóng rong nhớt, bà con cần thay nước khoảng 30% để giảm bớt tảo độc, nấm, vi khuẩn trong ao nuôi và giảm liều lượng thức ăn từ 5 - 10% trong một thời gian để tránh dư thừa thức ăn gây phát sinh khí độc NH3. Mặt khác, bà con có thể tăng cường bổ sung thêm Vitamin C, EM chuối vào thức ăn của tôm để bổ sung dinh dưỡng nhằm gia tăng đề kháng, giảm stress và hạn chế việc tôm chết. 

Ngoài việc giảm chất hữu cơ và bổ sung vitamin C thì và con cần phải bổ sung thêm khoáng bằng cách bón Dolomite hoặc chất tăng khoáng. Điều này sẽ giúp cho tôm thoát khỏi tình trạng mềm vỏ, dễ dàng lột vỏ và thay lớp vỏ mới.

Trường hợp tôm không bị mềm vỏ nhưng lại không thể lột vỏ, bà con cần sử dụng BKC liều 80% để kích thích quá trình lột vỏ. 

Có thể dùng Formalin (35 – 40%) với liều lượng là 25 – 30ppm, sau đó sục khí oxy liên tục, tuy nhiên người nuôi nên cân nhắc khi sử dụng loại hóa chất này vì sẽ để lại nhiều rủi ro độc hại.

Bệnh đóng rong, đóng nhớt trên tôm xuất hiện từ giai đoạn tôm giống cho đến lúc trưởng thành, gặp ở cả tôm sú, tôm thẻ và tôm càng xanh. Thời gian dài không điều trị sẽ khiến tôm còi cọc, giảm năng suất của vụ nuôi. Do đó, người nuôi cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa và  thường xuyên theo dõi để phát hiện và xử lý kịp thời.

Nhất Linh