TIN THỦY SẢN

Xuất khẩu cá tra sang ASEAN chững lại

Hiện nay, ASEAN là thị trường XK cá tra lớn thứ 4 của Việt Nam (sau Mỹ, EU và Trung Quốc-Hongkong). Tính đến hết tháng 7/2016, giá trị XK cá tra đạt 79,8 triệu USD, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, 3 thị trường đơn lẻ lớn nhất là Thái Lan, Singapore và Philippines giá trị XK tăng lần lượt 1,3%; 1,6% và 4,4% so với cùng kỳ năm 2015.

Cho đến nay, ASEAN vừa là thị trường XK cá tra lớn của Việt Nam nhưng cũng là nguồn cung nguyên liệu thủy sản của các DN Việt Nam như: tôm, mực, bạch tuộc và một số sản phẩm cá biển. Đây cũng là thị trường cạnh tranh ASEAN lớn nhất của Việt Nam tại nhiều thị trường XK lớn của Việt Nam.

Hiện nay, chủ yếu Việt Nam XK cá tra phile đông lạnh và cá tra cắt khúc đông lạnh sang thị trường ASEAN. Trong đó, Thái Lan là thị trường XK đơn lẻ lớn nhất, chiếm đến 35,8% tổng giá trị XK của toàn khối và chiếm 3,1% tổng XK cá tra Việt Nam.

Việt Nam là nguồn cung lớn nhất nhóm cá phile đông lạnh (HS 0304) của Thái Lan, trong đó, sản phẩm cá tra và cá da trơn phile đông lạnh (HS 030462) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu cá đông lạnh từ 18-58% tổng giá trị NK. Mặc dù vậy, cho đến nay, sản phẩm cá tra phile đông lạnh cũng vẫn chịu cạnh tranh từ một số sản phẩm cá thịt trắng (trong đó có cá Alaska Pollack) và cá khác như cá hồi, cá ngừ.

Tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt khi hội nhập không chỉ về hàng hóa mà còn sẽ còn là những cuộc cạnh tranh về dịch vụ, đầu tư, sự di chuyển của nguồn lao động có ký năng trong khối các nước ASEAN.

Ngoài ra, đối mặt với cạnh tranh là sự di chuyển lao động chất lượng. Lao động có kỹ năng tự do di chuyển có thể dẫn đến chảy máu chất xám. Theo thống kê của Bộ Công Thương, có 20% lao động Việt Nam có kỹ năng chuyên môn, như vậy có nghĩa khi lao động được tự do di chuyển, lao động có kỹ năng của Việt Nam có khả năng đi ra bên ngoài vì được trả lương cao, hoặc hướng tới các DN đầu tư nước ngoài ngay tại Việt Nam, hoặc lao động có kỹ năng của nước ngoài sẽ thâm nhập vào các vị trí của Việt Nam.

Để nâng cao thị phần tại ASEAN, các DN XK cá tra nên xác định và có chiến lược vừa phát triển và cạnh tranh để giá trị sản phẩm tăng cao hơn tại thị trường tiềm năng này. Dự báo, quý IV/2016, giá trị XK cá tra sang thị trường này tăng không quá 10% so với cùng kỳ năm 2015.

Sản phẩm thủy sản nhập khẩu của Thái Lan, T1-T5/2016

Mã HS

Sản phẩm

KL (tấn)

GT (nghìn USD)

T1-T5/2015

T1-T5/2016

Tăng, giảm (%)

T1-T5/2015

T1-T5/2016

Tăng, giảm (%)

 

Tổng thủy sản

607.842

663.566

9,2

995.749

1.074.360

7,9

0303

Cá nguyên con đông lạnh

449.155

435.291

-3,1

594.807

611.503

2,8

0307

Nhuyễn thể

76.114

74.935

-1,5

138.137

149.112

7,9

0304

Cá phile/cắt khúc tươi/ướp lạnh/đông lạnh

29.022

29.684

2,3

82.686

81.288

-1,7

0306

Giáp xác đông lạnh

11.468

12.357

7,7

66.381

67.724

2,0

1604

Cá chế biến

15.624

20.333

30,1

54.058

67.226

24,4

0302

Cá tươi nguyên con

20.157

83.132

312,4

38.612

70.474

82,5

1605

Giáp xác, nhuyễn thể chế biến

4.391

5.863

33,5

13.632

19.358

42,0

0305

Cá nướng/hun khói

1.414

1.301

-8,0

4.800

5.641

17,5

0301

Cá sống

341

338

-1,0

1.322

1.430

8,2

0308

Thủy sinh khác

157

332

111,4

1.314

604

-54,0

 

Vasep, 12/09/2016