Bệnh u sần, u nang bạch huyết trên cá bớp

Lymphocystis disease in cobia

Hiện nay, cá bớp được nuôi khá phổ biến ở các tỉnh ven biển của nước ta, mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho người nông dân. Tuy vậy, cá phải đối diện với nhiều dịch bệnh do vi khuẩn, ký sinh trùng hoặc virus,... gây ra. Một trong số những bệnh trên cá bớp do virus gây ra là bệnh lymphocystic (bệnh u sần). 

Lymphocystis là một bệnh mãn tính nhưng hiếm khi gây tử vong. Cá mắc bệnh lymphocystis phát triển các nốt sần lớn ( 0,3 2.0,0 mm hoặc nhiều hơn đường kính) xảy ra chủ yếu trên bề mặt cơ thể nhưng cũng có thể phát triển trên các cơ quan nội tạng.

Hầu như các bệnh do virus gây ra đến nay vẫn chưa có thuốc hoặc phương pháp đặc trị hiệu quả. Trong phạm vi bà viết này, chúng tôi cố gắng tổng hợp các thông tin liên quan đến bệnh và cách phòng trị cho người nuôi cá bớp.


Nguyên nhân

Do Iridovirus gây ra, đây là những virus có DNA lớn. Virus gây bệnh lymphocystis là một mầm bệnh phổ biến của cá có thể lây nhiễm ở cá biển và cá nước ngọt trên toàn thế giới. 

 bệnh trên cá bớp, bệnh cá, bệnh u sần, bệnh do virus, bệnh lymphocystic

Hình 1: Mô hình không ian của Iridovirus (Nguồn: ViralZone)

bệnh trên cá bớp, bệnh cá, bệnh u sần, bệnh do virus, bệnh lymphocystic

Hình 2: Mô bào bệnh lymphocystis bị phì đại (Nguồn: P. Bowser và ctv, 2017)

Trong tự nhiên, virus gây bệnh lymphocystis được truyền qua cá do tiếp xúc với các vết thương trên bề mặt với virus có trong nước hoặc do ăn phải virus hoặc các tế bào bị nhiễm virus. 

Triệu chứng

Cá bị bệnh lymphocystis sẽ xuất hiện các khối u nhỏ, có màu trắng hay hồng trên vây, lưng, đầu cá. Kích thước của các tế bào lymphocystis thay đổi và dao động từ 10 đến 150 mm đường kính. Các tế bào bị nhiễm có hình tròn, hình nón hoặc dị thường.

bệnh trên cá bớp, bệnh cá, bệnh u sần, bệnh do virus, bệnh lymphocystic

Đôi khi khối u vỡ gây gây loét và xuất huyết. Bệnh này chỉ gây chết rải rác nhưng sẽ gây ảnh hưởng tới sinh trưởng và giá trị thương phẩm của cá nuôi. Mầm bệnh mất một tuần đến một năm hoặc hơn để phát triển, tùy thuộc vào loài vật chủ và điều kiện môi trường. Các tổn thương do bệnh này gây ra cuối cùng sẽ lành, nhưng sẽ để lại mô sẹo, gây mất cảm quan cho cá bớp.

Bệnh diễn ra nhanh hơn ở nhiệt độ nước ấm hơn. 

Tần xuất gặp của bệnh lymphocystic ở cá bớp nuôi tại Khánh Hòa là 2/4. Có tới 80% trường hợp bệnh này xuất hiện vào mùa mưa. Bệnh có thể xảy ra ở các cỡ cá khác nhau, nhưng vẫn gặp ở cá con cao hơn: cá con: 40%, cá lớn: 20% và tất cả các cỡ cá: 40%.


Phân bố

Hầu hết các vùng nuôi các bớp ven biển đều có nguy cơ xảy ra. Tuy nhiên khi nguồn nước ô nhiễm, hay thức ăn và con giống kém chất lượng bệnh sẽ dễ xảy ra hơn.

Phòng trị

Vẫn chưa có phương pháp điều trị hiểu quả cho cá mắc bệnh. Đa số vẫn tập trung vào các phương pháp như tắm cá, cách ly, hay cắt bỏ các u sần bệnh.

Cá mắc bệnh lymphocystic cần được loại bỏ hoặc cách lý ngay với bầy đàn.

Trong trường hợp cá có giá trị thành phẩm nhưng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, người nuôi có thể phẫu thuật cắt bỏ các u sần và sử dụng iodophor pha loãng để sát trùng các vết thương. Cần cẩn thận để tránh làm bỏng da xung quanh bằng cách tiếp xúc lâu dài với iodophor.

Phòng bệnh

Hiện nay vẫn chưa có vaccin có sẵn để phòng bệnh, do đó công tác quản lý và kỹ thuật nuôi là rất quan trọng nhằm hạn chế tối đa khả năng xảy ra bệnh.

Người nuôi cần sàng lọc cẩn thận các nguồn cá giống khi nuôi. Thường xuyên khử trùng vùng nuôi bằng thuốc tím, chú trọng công tác vệ snh ao nuôi, lồng bè định kỳ. Cho cá ăn các loại thức ăn an toàn đầy đủ dinh dưỡng, người nuôi có bổ sung vitamin C vào thức ăn để cá tăng sức đề kháng. Nuôi cá với mật độ thích hợp, ránh gây áp lực lên cá do bầy đàn quá đông.

Người nuôi có thể tham khảo nhiều cách phòng bệnh tương tự như các bệnh khác do virus, vi khuẩn hoặc ký snh trùng gây ra trên cá. 

Tài liệu tham khảo

https://www.sciencedirect.com/topics/veterinary-science-and-veterinary-medicine/lymphocystis

http://www.fao.org/tempref/FI/DOCUMENT/aquaculture/CulturedSpecies/file/en/en_cobia.htm

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 02/2008, Trường Đại học Nha Trang


bởi Mạnh Kha