Kỹ thuật nuôi Tôm sú

Một số bệnh thường gặp trên tôm sú và cách phòng trị

Dương Nhựt Long

*Tôm bị rụng râu, phồng đuôi, đốm đen, đốm nâu


Nguyên nhân: là do các vi khuẩn Vibrio, Aeromonas, Pseudomonas...gây bệnh có trong hồ nuôi tôm.

Để chữa trị: - sử dụng Virkon 0,5-0,9ppm (0,5-0,9kg/1000m3 nước), hoà nước rồi tại đều xuống ao. Liều dùng này còn có thể  trị được các bệnh do vi khuẩn như bệnh phát sáng, phồng đuôi, đốm đen...

Để phòng bệnh đốm trắng và các bệnh do vi khuẩn: - sử dụng Virkon 0,3ppm (0,3kg/1000m3 nước), hoà nước rồi tại đều xuống ao, định kì 10 ngày 1 lần. - hoặc: sử dụng Virkon 0,5ppm (0,5kg/1000m3 nước), hoà nước rồi tại đều xuống ao, định kì 15 ngày 1 lần. - xử lí kĩ ao nuôi trước khi thả tôm. - ngăn không cho nhiễm bệnh từ các ao nuôi lân cận (sử dụng riêng vợt, chài, vó... cho từng ao; sát trùng các dụng cụ dùng chung)

Ngoài ra có thể sử dụng các loại kháng sinh khác để phòng và chữa bệnh đứt râu: - Anti-vibrio F/S2, Flume bath F/S2, Flumecol-B, Flumecol-T, Vime-antidisea, Vimecol for shrimp của Vemedim Vietnam (7 đường 3/2 - Cần Thơ)

Có thể sử dụng định kì các vitamin để tăng sức đề kháng cho tôm.

*Bệnh đóng rong trên tôm

Đóng rong là một bệnh chủ yếu do môi trường tạo ra trong đó các tác nhân chính là tảo, nấm, động vật nguyên sinh và vi khuẩn tác động lên nhau tạo thành bệnh.

Theo Lightner, bệnh đóng rong xuất phát từ những Protozoe sống tự do trong ao hoặc trong bể nuôi, bọn này sống lơ lửng hoặc sống dưới đáy ao.

Bệnh đóng rong trên tôm có mặt ở khắp nơi trên thế giới.

Trong quá trình nghiên cứu tại ba vùng khác nhau, chúng tôi nhận thấy, toàn bộ các ao nuôi đều có xuất hiện bệnh đóng rong. Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện từng ao mà bệnh xuất hiện sớm hay muộn.

Bệnh đóng rong xuất hiện từ giai đoạn tôm giống đến tôm trưởng thành, đặc biệt là vào những tháng cuối của vụ nuôi.

Đặc trưng của mầm bệnh:

- Phần lớn do một số vi khuẩn gây ra như: Vibrio sp., Aeromonas sp., ... Do một số tảo lam: Spirulina subsalsa, Schizthrix calcicola; Tảo lục: Enteromorpha sp.; Tảo khuê: Amphora sp., Nitszchia sp., loài nấm và nguyên sinh động vật.

Theo Lightner, bệnh này xuất hiện do ký sinh trùng, tảo, vi khuẩn ... tấn công từ bên ngoài vào.

Bệnh đóng rong rất dễ nhận biết, toàn thân bị dơ, tập trung ở phần đầu ngực hay toàn thân, mang và các phụ bộ. Tôm bị bệnh này rất yếu, bỏ ăn, ít di chuyển và cặp mé bờ, đồng thời mang thường bị tổn thương hoặc biến đổi màu sắc.

Phương pháp cuẩn đoán:

Kiểm tra ký sinh trùng bằng cách soi tươi dưới kính hiển vi kết quả phát hiện thấy Vorticella sp. và Epistylis sp. và nhiều nấm. Xét nghiệm PCR trên tôm bị đóng rong có đến 80% tôm bị nhiễm mầm bệnh đốm trắng với cường độ nặng.

Biện pháp phòng trị:

- Phòng bệnh bằng cách quản lý chất lượng nước ao tốt, ổn định tảo trong ao và luôn đảm bảo nhu cầu oxy cho tôm.

- Tăng cường thay nước nhằm cải thiện môi trường đồng thời kích thích cho tôm lột. Nếu tỷ lệ nhiễm cao, chúng ta có thể dùng formol liều lượng từ 15-20ppm đánh vào ban ngày sau đó thay nước, nếu đóng rong vẫn còn ta có thể đánh tiếp lần hai.

*Bệnh đen mang

Bệnh đen mang là bệnh thường gặp ở tôm nuôi trong các ao nuôi có môi trường không tốt, mật độ nuôi dày.

Triệu chứng:

  •     Mang và vùng mô nối mang với thân tôm có màu nâu hoặc đen. Khi nhiễm nặng các phụ bộ, chân và đuôi cũng bị đen.
  •     Tôm nổi đầu do thiếu oxy, bơi lờ đờ trên mặt nước, dạt vào bờ.
  •     Tôm giảm ăn, chậm lớn và chết khi có thêm các tác nhân khác.
  •     Mang tôm bị vi khuẩn, nấm hoặc nguyên sinh động vật ký sinh phá hủy khi bệnh nặng.

Nguyên nhân:

  •     Do ao bị ô nhiễm:
    •         Trong ao có nhiều chất ô nhiễm hữu cơ do thức ăn dư thừa, tảo tàn.
    •         Đáy ao có nhiều mùn bã hữu cơ, hàm lượng nitrit, nitrat, và các khí độc amonia, H2S cao
    •         Các chất lơ lửng trong nước bám vào mang tôm làm mang có màu vàng, nâu đen.
  •     Do tôm bị đóng rong trên mang và vỏ:
    •         Mang và vỏ tôm đóng rong làm các chất vẩn hữu cơ dễ bám vào và làm mang tôm chuyển màu.
  •     Do tôm nhiễm nấm Fusarium (Fusarium Disease):
    •         Mang tôm bị nhiễm nấm Fusarium solani  mang tôm nhiễm sắc tố Melanin (sắc tố màu đen). Có thể thấy được sợi nấm khi soi tươi mang tôm bệnh bằng kính hiển vi. Các loài nấm thuộc giống Fusarium có trong nước ngọt, nước lợ và đất ở khắp nơi. Tất cả các loài tôm nuôi đều có thể bị nhiễm nấm. Tôm gần trưởng thành và trưởng thành thường bị nhiễm nặng. Tôm sú và tôm thẻ tương đối đề kháng được với nấm nhưng khi bệnh xảy ra rất khó điều trị.
  •     Do pH nước thấp, trong nước nếu có nhiều ion kim loại nặng (nhôm, sắt), muối của chúng kết tụ trên mang tôm làm chuyển màu đen.

Phòng bệnh:

  •     Tẩy dọn ao kỹ trước khi thả tôm
  •     Lắng lọc kỹ nước trước khi cấp vào ao nuôi
  •     Chọn mật độ nuôi phù hợp với tay nghề và kỹ thuật.
  •     Kiểm soát tảo trong ao, tránh tảo tàn đồng loạt (dùng đường, BKC...)
  •     Tăng cường sục khí để tăng hàm lượng oxy
  •     Tránh dư thừa thức ăn, định kì dùng men vi sinh để giảm phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ trong ao, giữ đáy ao sạch
  •     Bổ sung Vitamin C và men tiêu hóa vào thức ăn

Trị bệnh:

  •     Nếu bệnh phát sinh do môi trường ô nhiễm: Thay nước đáy hoặc xiphong đáy, đánh zeolite, dùng chế phẩm yucca, men vi sinh, bổ dung vitamin C vào thức ăn.
  •     Nếu bệnh phát sinh do nhiễm khuẩn: Diệt khuẩn nước bằng BKC, iodin, v.v... thay nước đáy, dùng men vi sinh xử lý đáy ao, bổ sung vitamin C và đa vitamin vào thức ăn. * Chú ý: nếu dùng chất diệt khuẩn thì sau 3 ngày mới đánh men vi sinh.
  •     Trường hợp khẩn cấp, không có điều kiện thay nước: dùng vôi, zeolite để xử lý, sau đó dùng vi sinh.

*Bệnh mềm vỏ kinh niên

Biểu hiện: Bệnh mềm vỏ kinh niên là bệnh thường xảy ra trong các ao nuôi tôm thương phẩm. Biểu hiện của bệnh là sau khi lột xác, vỏ tôm không cứng lại được, vỏ thường bị nhăn nheo, dễ rách nát nên dễ bị cảm nhiễm của các tác nhân gây bệnh, tôm có vỏ mềm yếu, vùi mình dạt bờ. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng mềm vỏ của tôm.

Nguyên nhân: - Do trong thức ăn dùng nuôi tôm thiếu chất khoáng hoặc thiếu một số vitamin, nhất là vitamin D thúc đẩy quá trình hấp thụ các chất khoáng. Cũng có thể thức ăn kém chất lượng, ôi thiu hoặc cho ăn thiếu.

-Trong ao có nhiều chất độc, như các khí độc sinh ra do sự phân huỷ của các chất hữu cơ, chất độc sinh ra do tảo độc hoặc chất độc do nguồn nước thải công nghiệp, sinh hoạt đặc biệt là thuốc trừ sâu trong nông nghiệp.

-Nuôi tôm trong điều kiện môi trường có nhiều biến động gây sốc làm rối loạn hoạt động trao đổi chất của tôm cũng gây ra mềm vỏ.

Phòng trị: Từ nguyên nhân gây mềm vỏ như đã nêu ở trên, cần ngăn chặn hiện tượng này cần quan tâm đến vấn đề sau:

-Dùng thức ăn có chất lượng tốt, có hàm lượng P: Ca là 1: 1. Bổ sung một lượng Vitamin tổng hợp, không nuôi mật độ quá cao.

-Đảm bảo độ pH 7,5 đến 8,5 trong suốt quá trình nuôi.

-Tránh nguồn nước thải công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt chảy vào ao nuôi, tránh hiện tượng tảo nở hoa gây biến động điều kiện môi trường.

*Bệnh đầu vàng (Yellow head disease)

Bệnh đầu vàng xuất hiện trên tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm rảo, tôm rằn và nhiều loại tôm khác tại Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ... Ở Việt Nam, tôm nhiễm bệnh đầu vàng nhiều lúc thời tiết thay đổi lúc giao mùa, ở những vùng nuôi ven biển độ mặn cao.

Triệu chứng:

- Tôm ăn nhiều khác thường trong vài ngày, rồi bỏ ăn đột ngột. Sau đó 1-2 ngày tôm bơi lờ đờ không định hướng trên mặt nước hoặc ven bờ, bám vào bờ.

- Phần đầu ngực, gan, tụy chuyển màu vàng, gan có thể có màu trắng nhạt, vàng nhạt hoặc nâu

- Thân tôm có màu nhợt nhạt

- Tôm chết rải rác trong vó rồi chết với mức độ tăng dần

- Tôm chết rất nhanh trong vòng 3-5 ngày (có thể chết gần 100%) sau khi xuất hiện các triệu chứng.

- Theo Việt Linh, bệnh nặng thêm và gây chết nhanh khi tôm vừa có dấu hiệu nhiễm bệnh đầu vàng vừa có bệnh đốm trắng.

Bệnh đầu vàng trên tôm sú (Penaeus monodon): Tôm bên trái: bị nhiễm bệnh. Tôm bên phải: bình thường.

 

Phương pháp chẩn đoán bệnh:

- Nhận biết triệu chứng bệnh.

- Nhuộm màu mô bào, tế bào máu nhận thấy nhân tế bào bị thoái hóa đông đặc.

- Phân tích PCR.

Nguyên nhân:

- Bệnh do virus YHV (yellow head virus) là virus có acid nhân RNA chuỗi đơn, hình que, kích thước 44 x 173 nm, thuộc loài Nidovirales, họ Ronaviridae, chi Okavirus.

Lây truyền bệnh:

- Chủ yếu lây truyền theo hàng ngang, do có vật chủ trung gian mang mầm bệnh vào môi trường nước.

Phòng và trị bệnh:

- Bệnh đầu vàng chưa có thuốc chữa.

- Phòng ngừa và ngăn chặn bằng cách chọn tôm giống sạch bệnh (qua kiểm tra PCR), diệt khuẩn và diệt vật chủ mang mầm bệnh trong ao và nước.

- Không nuôi mật độ quá cao.

- Luôn cung cấp đủ oxy cho ao nuôi.

- Giữ môi trường ổn định.

*Bệnh phát sáng

Bệnh phát sáng xuất hiện quanh năm trên các loài tôm sú, thẻ, càng xanh... Bệnh có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn ương nuôi từ trứng đến tôm trưởng thành.

Bệnh phát triển mạnh trong môi trường nước giàu dinh dưỡng, nhiều chất hữu cơ ở độ mặn cao, thiếu oxy hòa tan, lây lan nhanh trong mùa nóng.

Triệu chứng:

  •     Tôm yếu, bơi không định hướng, tấp mé bờ, phản ứng chậm chạp
  •     Mang và thân tôm có màu sẫm, bẩn, thịt đục màu. Gan viêm và teo nhỏ, mất chức năng tiêu hóa cho tôm.
  •     Ăn giảm, không có thức ăn và phân trong ruột, phân tôm trong nhá ít.
  •     Đầu, thân tôm phát sáng màu trắng - xanh lục trong bóng tối.
  •     Quan sát bằng kính hiển vi thấy vi khuẩn phát sáng di chuyển trong cơ, máu tôm.
  •     Có đốm sáng rất nhỏ và nhiều trên phần cơ thịt của tôm
  •     Tôm chậm lớn, có thể bị đóng rong ở mang và vỏ.
  •     Tôm chết đáy rải rác tuỳ vào mức độ nặng nhẹ của bệnh. Nếu nhiễm bệnh 100% đàn tôm trong giai đoạn 45 ngày nuôi đầu, có thể chết hàng loạt.
  •     Tôm ấu trùng nhiễm bệnh có màu trắng đục, nhiễm bệnh nạng thì lắng dưới đáy bể ương và chết hàng loạt.

Phương pháp chẩn đoán bệnh:

- Nhận biết triệu chứng bệnh.

- Thử nghiệm bằng TCBS Agar test kit (dùng môi trường thiosulfate citrate bile sucrose agar) để phát hiện vi khuẩn.

Nguyên nhân:

  •     Nhiễm vi khuẩn thuộc nhóm Luminescencet Vibrio: chủ yếu và gây nguy hiểm nhất là Vibrio harveyi. Các vi khuẩn này có enzyme Luciferase gây ra sự phát sáng.
  •     Là vi khuẩn gram âm G, phát triển nhanh ở độ mặn 10-40ppt (mạnh nhất ở độ mặn 20-30 ppt).
  •     Các vi khuẩn này có khả năng kháng lại nhiều loại kháng sinh.
  •     Bệnh có thể nhiễm từ các trại giống, ao ương sang ao thịt. Trong sản xuất giống, mầm bệnh được lây lan chủ yếu bằng đường ruột từ tôm mẹ sang ấu trùng trong giai đoạn sinh sản.

PHÒNG NGỪA VÀ XỬ LÍ BỆNH  

1. Trại giống

  •     Vệ sinh kỹ lưỡng bình ấp trứng, bể ương.
  •     Thường xuyên sát trùng dụng cụ.
  •     Xử lý nguồn nước bằng UV, chlorine, ozone
  •     Xử lý trứng artemia bằng chlorine

2. Tôm giống

  •     Chọn tôm bố mẹ khỏe, sạch bệnh.
  •     Kiểm tra bằng PCR
  •     Kiểm tra sự căng thẳng và sức khỏe của giống, loại tôm yếu bằng formol,
  •     Thả nuôi với mật độ thả phù hợp

3.  Ao nuôi

  •     Trước vụ nuôi phải cải tạo ao: nạo vét sạch bùn đáy, bón vôi, phơi ao
  •     Diệt khuẩn trong ao và nước bằng Chlorine 30ppm hoặc B.K.C 1-2ppm hoặc thuốc tím KMnO4 2-3ppm
  •     Diệt các vật chủ trung gian, hạn chế cua, còng, ốc trong ao. Vớt hết tôm chết ra khỏi ao.
  •     Dùng men vi sinh để cải tạo đáy ao và xử lý nước hằng ngày trước khi thả tôm 7 ngày.

4. Phòng bệnh:

  •     Độ mặn:

    Không nuôi tôm ở độ mặn quá cao. Hạ độ mặn để ức chế vi khuẩn phát sáng.
    Nhiệt độ nước:

    Vào mùa hè, duy trì mức nước trong ao nuôi từ 1,2 – 1,5m và độ trong của nước từ 30 – 40cm để hạn chế khả năng tăng nhiệt.

  •     Giữ môi trường ổn định:

    Kiểm tra chất lượng nước (pH, kH, độ đục, màu sắc, tảo) và đáy ao thường xuyên để xử lý kịp thời.

    Tăng cường chạy sục khí.

    Sử dụng men vi sinh, đường cát, định kỳ.

    Theo Việt Linh, cần giữ môi trường ổn định không để tảo tàn đồng loạt làm mất màu nước và bùn đáy. Phát triển nhóm tảo lục (chlorella) để khống chế sự phát triển của vi khuẩn Vibrio harveyi.

  •      Giảm chất hữu cơ trong nước:

    Kiểm tra sàng ăn hàng ngày, điều chỉnh thức ăn hợp lý, không để thừa thức ăn làm ô nhiễm nước và đáy ao.

    Định kỳ thay nước, xiphông đáy, hút bùn, để giảm bớt chất hữu cơ trong ao.

  •     Chăm sóc sức khỏe và phòng bệnh cho tôm:

    Bổ sung vitamin C, đa vitamin, men tiêu hóa và khoáng vi lượng vào thức ăn để tạo kháng thể, giúp tôm có sức đề kháng, giảm căng thẳng cho tôm nhất là khi có thay đổi môi trường nước hoặc biến động thời tiết.

    Từ khi tôm được 21 ngày tuổi, định kỳ kiểm tra vibrio trong nước và tôm 7 ngày/lần. Vibrio trong nước phải ít hơn 102 tế bào/cc và không có vi khuẩn này trong gan tôm.

5. Xử lý khi tôm nhiễm bệnh

  •     Dùng thuốc kháng sinh: dùng đúng loại thuốc, đúng liều lượng, đúng thời gian. Việc sử dụng kháng sinh chỉ có kết quả khi phát hiện bệnh sớm.
  •     Bổ sung đa vitamin và men tiêu hóa vào thức ăn.
  •     Diệt khuẩn nước trong ao và khử trùng dụng cụ, thiết bị.

 

 

Tài liệu tham khảo

Kỹ thuật nuôi Tôm sú

Đặc điểm sinh học Tôm sú - Penaeus monodon
  1. Giải pháp tăng năng suất nuôi tôm quảng canh cải tiến kết hợp
  2. Kỹ thuật nuôi xen ghép tôm sú - cua - cá đối trong rừng ngập mặn
  3. Quy trình kỹ thuật nuôi tôm sú quảng canh cải tiến
  4. Kỹ thuật ương tôm sú trong mô hình nuôi hữu cơ
  5. Kỹ thuật nuôi tôm sú kết hợp cá đối mục và cua
  6. Làm gì để phục hồi đáy ao tôm lâu năm bị “lão hóa”
  7. Kỹ thuật nuôi tôm sú xen cá đối nục
  8. Vèo tôm giống thế nào cho đúng?
  9. Bệnh đốm trắng và công nghệ nuôi tôm nhằm phòng, chống
  10. Xu hướng sử dụng hệ thống lắng lọc trong nuôi tôm thâm canh