TIN THỦY SẢN

Bệnh vi bào tử trùng trên tôm nuôi

Tôm nhiễm bệnh vi bào tử trùng. Ảnh: Tép Bạc NT

Bệnh vi bào tử trùng do vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra, làm cho tôm chậm lớn bởi EHP ký sinh nội bào và sử dụng dinh dưỡng, năng lượng dự trữ trong gan, tụy khiến tôm không đủ dinh dưỡng, năng lượng cho sự tăng trưởng và lột xác.

Bệnh được phát hiện nhiều trên các ao tôm nuôi đã nhiễm hội chứng phân trắng, EHP không gây chết tôm nhưng gây tổn thương trên các ống gan tụy, giảm sức đề kháng tăng nguy cơ tôm bị nhiễm thứ phát các tác nhân gây bệnh khác làm chết tôm. Tôm nhiễm EHP có thể tăng tính mẫn cảm với một số bệnh: Đốm trắng (WSSV), Hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND),… và tỉ lệ chết có thể lên đến 100% trong khoảng thời gian ngắn. Có tốc độ lây lan nhanh theo đường truyền dọc và truyền ngang.

Triệu chứng

Tôm bị bệnh EHP không có bệnh tích điển hình. Đối với các ao bị nhiễm EHP, tôm thường có kích cỡ không đồng đều sau khoảng 25 ngày thả nuôi. Tăng trưởng của tôm chỉ đạt từ 10 – 40% so với tôm ở các ao không nhiễm bệnh. 

Chẩn đoán bệnh

Chẩn đoán lâm sàng

Do bệnh không có triệu chứng, bệnh tích điển hình và dễ nhầm lẫn với các bệnh khác nên việc chẩn đoán lâm sàng chỉ có tính hỗ trợ định hướng trong quá trình chẩn đoán, xét nghiệm bệnh.

Tôm nhiễm bệnh có kích thước không đồng đều. Ảnh: NT

Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm

Phương pháp mô bệnh học; phương pháp sinh học phân tử đang được sử dụng chẩn đoán nhanh đối với bệnh do EHP. 

Cục Thú y đã ban hành Tiêu chuẩn cơ sở số 03:2016/TY-TS, chẩn đoán bệnh do EHP bằng phương pháp PCR đã và đang được áp dụng tại các phòng xét nghiệm, chẩn đoán bệnh động vật của Cục Thú y.

Các biện pháp phòng, chống dịch bệnh

Bệnh do EHP là bệnh ký sinh trùng nội bào, đến nay chưa có thuốc điều trị, do đó việc sử dụng thuốc kháng sinh để phòng và trị bệnh là không hiệu quả; việc lạm dụng kháng sinh làm cho tôm chậm lớn và gây ra hiện tượng kháng kháng sinh. 

Đối với cơ sở sản xuất tôm giống

- Ngăn chặn tác nhân gây bệnh từ bên ngoài xâm nhập vào cơ sở và mầm bệnh từ cơ sở (nếu có) ra ngoài môi trường; 

- Nguồn thức ăn tươi sống cho tôm bố mẹ: đảm bảo không nhiễm EHP và các bệnh khác trên tôm theo quy định;

- Tôm giống (Postlarvae): Thực hiện xét nghiệm bệnh đảm bảo không bị nhiễm EHP trước khi xuất bán và thực hiện kiểm dịch theo quy định;

- Nguồn nước nuôi: khử trùng nước nuôi trước khi đưa vào sử dụng;

- Có quy trình vệ sinh, khử trùng tiêu độc, bảo đảm hiệu quả khử trùng (bảo hộ, hố khử trùng, khử trùng định kỳ,…);

- Khi phát hiện lô tôm giống dương tính với EHP, tiến hành các biện pháp phòng chống theo quy định;

- Xử lý ổ dịch phải đảm bảo: Toàn bộ dụng cụ, phương tiện chứa đựng, vận chuyển, bể nuôi,.. phải được khử trùng bằng chất sát trùng và phương pháp phù hợp; nước trong ao bệnh phải được xử lý bằng Chlorine nồng độ 30 ppm, ngâm trong 5 ngày trước khi xả ra ngoài môi trường.

Đối với cơ sở nuôi tôm thương phẩm 

- Xử lý ao sau mỗi vụ nuôi;

- Cải tạo đáy ao;

- Xử lý nước ao nuôi;

- Con giống đảm bảo không nhiễm EHP cũng như các tác nhân gây bệnh nguy hiểm khác;

- Trong quá trình nuôi, áp dụng các biện pháp an toàn sinh học để quản lý ao tôm, tuyệt đối không thực hiện san thưa tôm từ ao bệnh sang ao khác trong toàn bộ quá trình nuôi để tránh làm lây nhiễm bệnh từ ao này sang ao khác;

- Khi phát hiện tôm chết bất thường hoặc có biểu hiện chậm lớn khoảng 25 ngày sau thả nuôi, chủ cơ sở thực hiện khai báo với cơ quan thú y của địa phương theo quy định. 

- Xử lý ổ dịch phải đảm bảo: Toàn bộ dụng cụ, bể nuôi... phải được khử trùng bằng chất sát trùng; nước trong ao bệnh phải được xử lý bằng Chlorine nồng độ 30 ppm, ngâm trong 5 ngày trước khi xả ra ngoài môi trường; các chất cặn bã, bùn đáy ao,.. trong quá trình nuôi phải được thu gom và xử lý tại khu vực riêng.

NT