Côn trùng đẻ "trứng vàng" bị bỏ quên
Theo GS.TS Bùi Công Hiển, Trung tâm Ứng dụng Côn trùng học, Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, vì tập trung nuôi gia súc, gia cầm... nên nhiều người chưa nghĩ tới việc nuôi bướm, nuôi kiến, cá ngựa sinh sản... Đây là những loài côn trùng vừa dễ nuôi, ít tốn thời gian, diện tích, lại có thêm cho thu nhập.
Có của không biết dùng
Hiện chưa có công bố chính thức bao nhiêu loài côn trùng ở Việt Nam đã được xác định, nhưng ước tính không thể dưới 100.000 loài, trong đó nhiều loài còn là loài mới cho khoa học. Số lượng loài côn trùng ở nước ta đã định loại được có thể vào khoảng 7.000 loài, trong đó chỉ có chừng 5 - 8% là các loài gây hại.
Nếu người dân biết khai thác hợp lý tài nguyên côn trùng sẽ mang lại nguồn lợi đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước. Vì chỉ tính riêng trong lĩnh vực y học cổ truyền, côn trùng là một nguồn dược liệu vô cùng quý giá. Có tới hơn 40 loài côn trùng là vị thuốc trong các bài thuốc Đông y. Theo kinh nghiệm dân gian, côn trùng được sử dụng như loại thực phẩm bổ âm tráng dương có tác dụng tăng lực.
Côn trùng còn được biết đến là nguồn thực phẩm bổ dưỡng. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, côn trùng có độ đạm cao. Ví dụ, 100g châu chấu có tới 24,3g protein; 100g nhộng cung cấp 13g protein. Nếu so sánh với những loại đạm chuẩn như thịt gà thì lượng đạm trong loài côn trùng như châu chấu còn cao hơn trong thịt gà (100g thịt gà nạc có 20,3g protein (ít hơn so với châu chấu), cung cấp năng lượng 199kcal.
Ngoài ra, côn trùng còn giàu hàm lượng canxi và vi khoáng: 100g châu chấu cung cấp 210mg canxi, cao gần 10 lần so với thịt gà, thịt lợn (100g thịt gà nạc cung cấp 12mg canxi, 200mg phospho).
Trong khi nước ngoài rất biết khai thác thế mạnh từ côn trùng, thì ở nước ta, việc tận dụng côn trùng gần như ít được chú ý. Hiện nay, chúng ta mới chỉ tập trung vào việc nuôi ong, nuôi tằm, nuôi cánh kiến... Thực tế, việc nhân nuôi bò cạp, cà cuống, dế đã được một số người thực hiện thành công. Tuy nhiên, số lượng này còn ít, mang tính tự phát và chưa thật sự bền vững. Một phần vì người dân chỉ chọn món ăn từ côn trùng theo "mốt" chứ chưa thật sự hiểu về thức ăn côn trùng.
Ngoài ra, việc nhân nuôi không bền vững, khiến cho ngay cả nếu cung phát triển thì cầu cũng không đáp ứng kịp. Điều này cho thấy, việc khai thác tài nguyên côn trùng không có cơ sở khoa học và không xây dựng được một nghề, một hệ thống công nghệ hoàn chỉnh.
Đẩy mạnh nhân nuôi
Hiện nay, những nghiên cứu về côn trùng ở nước ta còn hạn chế. Ví dụ, trong lĩnh vực y học dân tộc cổ truyền, các sản phẩm từ côn trùng vẫn chỉ nằm dưới dạng các bài thuốc dân gian chứ chưa có những công trình nghiên cứu khoa học bài bản, nghiêm túc để đánh giá hết khả năng của côn trùng.
Điều quan trọng lúc này là phải có những chương trình điều tra, nghiên cứu một cách cụ thể. Phải hiểu rằng, việc nhân nuôi côn trùng là không khó so với nuôi gà, nuôi lợn.
Việc phát triển mô hình nhân nuôi côn trùng sẽ mang lại nhiều lợi ích như bảo tồn sự đa dạng sinh học, người dân có thêm nghề mới, xóa đói giảm nghèo ở những vùng đất đai cằn cỗi, cung cấp nguồn thực phẩm cũng như nguyên liệu làm thuốc cho xã hội. Tuy nhiên, nuôi con gì, cần phải có những nghiên cứu cụ thể, tránh nhân nuôi một cách ồ ạt thiếu cơ sở khoa học và công nghệ.
Tại các nước như Nhật Bản, Anh, Mỹ, Đức,Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Australia... đã có những cửa hiệu buôn bán côn trùng và những sản phẩm được làm từ côn trùng. Một con bọ kìm (Lucanidae, Coleoptera) có giá tới 88.000USD. Ở Việt Nam, năm 1994, người Nhật Bản đã mua một con bướm phượng 10 đuôi (Teinopalpus imperialis Hope) với giá 1.000USD. Chỉ tính riêng ở Mỹ hằng năm đạt 125 triệu USD nhờ kinh doanh từ các sản phẩm liên quan đến côn trùng. |