Mật độ phù hợp cho nuôi vỗ thành thục cá heo
Nghiên cứu này nhằm xác định mật độ nuôi vỗ thành thục cá heo giúp tìm ra mật độ nuôi vỗ thích hợp nhằm cải thiện tỉ lệ thành thục và sức sinh sản của cá heo.
Cá heo (Botia modesta Bleeker, 1865) là 1 trong 8 loài cá nước ngọt thuộc giống Botia phân bố khá phổ biến trong các lưu vực vùng hạ nguồn sông Cửu Long. Cá heo là loài có kích thước nhỏ, sản lượng thấp, tuy nhiên màu sắc đẹp có thể thuần hóa làm cá cảnh (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Thời gian gần đây cho thấy cá heo trở thành loài thủy đặc sản, có giá trị kinh tế cao, có tiềm năng triển vọng lớn cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy là loài có giá trị kinh tế nhưng nguồn lợi cá heo đang tiêu thụ trên thị trường hiện nay chủ yếu là được đánh bắt từ tự nhiên, không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, chưa chủ động được nguồn cá giống cho các mô hình nuôi thương phẩm cá heo (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Một số kết quả về đặc điểm dinh dưỡng và sinh sản cá heo đã được khảo sát, từ đó cho thấy hệ số thành thục của cá heo cao nhất là 2,4% vào tháng 8 (Nguyễn Thanh Hiệu và ctv., 2014).
Nguyễn Thanh Hiệu và ctv. (2015) đã nghiên cứu thành công về sản xuất giống cá heo. Nhưng do tỉ lệ thành thục cá heo còn thấp, mùa vụ sinh sản của cá heo trong tự nhiên đến trễ hơn so với một số loài cá nước ngọt khác, đây là nguyên nhân dẫn đến việc sản xuất giống cá heo còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu cá giống trên thị trường, có thể là do cá heo có điều kiện môi trường sống tương đối đặc biệt, sống nước chảy, chủ yếu ở tầng đáy, thích ẩn nấp trong các hốc đá, rễ cây hoạt động sống và bắt mồi theo đàn (Rainboth (1996). Vì vậy, để chủ động trong việc sản xuất giống cá heo thì việc xác định mật độ nuôi vỗ thành thục cá heo là cần thiết, để tìm ra mật độ nuôi vỗ thích hợp nhằm cải thiện tỉ lệ thành thục và mùa vụ sinh sản của cá heo là giải pháp cho việc hoàn thiện quy trình kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá heo.
Nghiên cứu mật độ nuôi võ thành thục cá heo
Thí nghiệm nuôi vỗ thành thục sinh dục cá heo được bố trí trong giai lưới có kích thước 1 x 1 x 2 m (dài x rộng x cao) đặt trong ao đất tại Trại cá Thực nghiệm Khoa Thủy sản – Trường Đại Học Cần Thơ. Hàng ngày, sử dụng máy bơm làm mưa nhân tạo trên mặt ao từ 17 giờ chiều đến 7 giờ sang hôm sau, nhằm tạo dòng chảy và cung cấp ôxy giúp cá thành thục được tốt hơn.
Ao nuôi vỗ cá heo có diện tích khoảng 500 m2, mực nước trong ao dao động từ 1 - 1,2 m. Ao trước khi bố trí nuôi vỗ được cải tạo như sên vét bùn đáy, bón vôi, nước được lấy vào ao qua lưới lọc. Nguồn nước trong ao nuôi vỗ được lấy từ một con kênh thông ra sông Hậu, nước trong ao nuôi vỗ được thay 2 lần/tháng và mỗi lần thay khoảng 30% lượng nước trong ao.
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức (NT) nuôi vỗ cá heo với các mật độ khác nhau là 0,5; 1 và 1,5 kg/m3 và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Thức ăn nuôi vỗ ở các nghiệm thức thí nghiệm là tép trấu.
Kết quả
Hệ số thành thục của cá ở mật độ 1,5 kg/m3 (4,31±1,08%) lớn hơn và khác biệt có ý nghĩa (p0,05) so với nghiệm thức 0,5 kg/m3 (2,04±0,83%).
Tỷ lệ thành thục của cá heo ở nghiệm thức 1 kg/m3 và 1,5 kg/m3 cao hơn và khác biệt có ý nghĩa (p0,05) so với nghiệm thức 0,5 kg/m3 vào tháng 5.
Sức sinh sản tương đối của cá heo dao động từ 158.360 - 186.556 trứng/kg. Sức sinh sản của cá heo ở mật độ 0,5 kg/m3 thấp hơn và khác biệt có ý nghĩa (p0,05) so với mật độ 1 kg/m3 và 1,5 kg/m3.