TIN THỦY SẢN

Nguồn lợi rong biển quần đảo Trường Sa

Quang Hưng

Rong biển, một nhóm thực vật bậc thấp sống ở biển, là một nguồn tài nguyên biển quan trọng. Từ lâu, rong biển đã được biết đến như một nguồn lợi thực phẩm có nhiều giá trị dinh dưỡng cao và có tác dụng chữa bệnh. Bên cạnh đó, rong biển còn làm nguyên liệu cho rất nhiều ngành công nghiệp như thực phẩm, dệt may, mỹ phẩm, dược phẩm,.... Ở nước ta hiện nay, rong biển đang là một trong những đối tượng có nhiều triển vọng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Một số nhóm rong kinh tế như rong Câu (Gracilaria), rong Đông (Hypnea), rong Mơ (Sargassum), rong Mào gà (Laurencia) và rong Kỳ lân (Eucheuma, Kappaphycus)... là những đối tượng được nuôi trồng rộng rãi phục vụ các nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đây là một trong những ngành nghề mới góp phần đáng kể làm thay đổi bộ mặt các vùng nông thôn nhất là các vùng nông thôn ven biển.

Quần đảo Trường Sa nằm ở giữa biển Đông, thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hoà, bao gồm khoảng 100 hòn đảo, đá ngầm và bãi san hô. Nơi đây có nhiều loài rong biển tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về rong biển ở quần đảo Trường Sa nói chung và về nguồn lợi, nói riêng từ trước đến nay còn rất ít, chủ yếu là nghiên cứu về thành phần loài, phân bố và sinh lượng, khu hệ.... Các kết quả nghiên cứu về nguồn lợi rong biển hầu như chưa có. Để có cơ sở khoa học trong việc khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn tài nguyên rong biển, đồng thời bổ sung thêm tư liệu về nhóm nguồn lợi này ở nước ta, trong thời gian qua các nhà khoa học thuộc Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng (nay là Viện Tài nguyên và Môi trường Biển) đã tiến hành nghiên cứu về nguồn lợi rong biển quần đảo Trường Sa và đạt được nhiều kết quả khả quan.  

Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được các nhà khoa học áp dụng như điều tra, khảo sát ngoài thực địa; tiến hành phân tích, xác định thành phần loài, sự phân bố của rong biển, trong đó có kết hợp với các kết quả khảo sát năm 2002, 2003 và tham khảo một số tài liệu khác. Từ các kết quả phân tích, nghiên cứu thu được, các nhà khoa học xác định các nguồn lợi rong biển có thể mang lại và đưa ra các giải pháp bảo vệ, khai thác nguồn lợi đó một cách hợp lý.

Thành phần loài và sự phân bố của rong biển

Kết quả nghiên cứu cho thấy tại 10 đảo thuộc quần đảo Trường Sa (Trường Sa lớn, Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử Tây, Phan Vinh, Tốc Tan, Thuyền Chài, Đá Tây, Sinh Tồn và Đá Nam), các nhà khoa học đã xác định được 255 loài rong biển thuộc 4 ngành là khuẩn Lam (Cyanophyta), rong Đỏ (Rhodophyta), rong Nâu (Phaeophyta) và rong Lục (Chlorophyta). Trong đó, rong Đỏ chiếm ưu thế hơn cả: 136 loài chiếm 53,3%, tiếp theo là rong Lục: 69 loài chiếm 27,0%, khuẩn Lam và rong nâu có số lượng loài bằng nhau: 25 loài chiếm 9,8%. 

Rong biển ở quần đảo Trường Sa có sự phân bố rất đa dạng và không đồng đều. Các nhà khoa học nghiên cứu sự phân bố của rong biển Trường Sa theo 2 hướng chủ yếu là phân bố địa lý (phân bố rộng) và phân bố thẳng đứng (phân bố sâu). 

Theo đó, sự phân bố địa lý (phân bố rộng) của rong biển tại các đảo thuộc quần đảo Trường Sa hoàn toàn không giống nhau. Số lượng loài tại các đảo dao động từ 17 loài (đảo Phan Vinh) đến 127 loài (đảo Đá Tây) và trung bình 72,9 loài. Sự phân bố rộng của các loài rong biển ở đây phù hợp với quy luật phân bố của sinh vật thuỷ sinh. Hệ số tương đồng của các loài tại các đảo khác nhau dao động từ 0,102 (giữa Đá Nam và Tốc Tan) đến 0,677 (giữa Trường Sa và Nam Yết). Nguyên nhân chính của sự sai khác này do sự khác nhau về vị trí địa lý giữa các đảo, tác động của con người và thiên nhiên. 

Sự phân bố thẳng đứng (phân bố sâu) của rong biển tại quần đảo Trường Sa chỉ nằm trong giới hạn từ vùng triều trở xuống và tập trung chủ yếu ở vùng triều thấp. Một số loài có thể phân bố sâu đến 20m dưới 0m hải đồ hoặc sâu hơn nữa. Trong số 255 loài Rong biển đã phát hiện được tại quần đảo Trường Sa, có tới 72% số loài phân bố ở vùng triều và 28% loài phân bố ở vùng dưới triều.

Nguồn lợi rong biển tại quần đảo Trường Sa

Căn cứ theo giá trị sử dụng của từng loài, các nhà khoa học đã phân loại rong biển tại quần đảo Trường Sa thành 6 nhóm làm nguyên liệu chế biến cụ thể như sau: Carrageenan, Agar, dược liệu, thực phẩm, phân bón và rau xanh.

Nhóm làm nguyên liệu chế biến keo carrageenan bao gồm các loài:Kappaphycus cottonii, K. inerme; Eucheuma arnoldii; Laurencia obtusa, L. papillosa; Acanthophora spicifera; Hypnea cornuta, H. spinella, Hypnea esperi...; 

Nhóm làm nguyên liệu chế biến agarGracilaria arcuata, G. edulis; Gelidiella acerosa, Gelidium pusillum; Liagora ceranoides; Actinotrichia fragilis...; 

Nhóm làm dược liệuLiagora ceranoides, L. farinisa, Actinotrichia fragilis, Asparagopsis taxiformis; Peyssonnelia rubra, Jania adhaerens, Mastophora rosea, Codium repens, C. arabicum; Dictyosphaeria cavernosa; Chondria armata; Caulerpa racemosa...; 

Nhóm làm thực phẩmLiagora ceranoides, L. farinisa, Gelidiopsis intricata, G. variabilis, Gelidiella myriocladia, Pterocladia pinnata, Halymenia maculata, Gracilaria arcuata, Kapaphycus cotoonii, Caulerpa racemosa, C. microphysa; Gracilaria arcuata; Hypnea pannosa, H. nidulans; Gelidella acerosa, G. myrioclada; Kappaphycus cottonii; Eucheuma arnoldii...; 

Nhóm làm phân bónHalimeda và Turbinaria, Padina...; 

Nhóm làm rau xanhCaulerpa racemosa.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tại quần đảo Trường Sa có 62 loài rong có giá trị kinh tế, trong đó, một số loài có trữ lượng tự nhiên tức thời là rong Mơ (34 tấn), rong Câu (9 tấn), rong Guột (10 tấn), rong Quạt (5 tấn), rong Gai (9 tấn), rong Đông (13 tấn), rong Mào gà (15 tấn), rong Sụn (30 tấn) và rong Loa kèn (20 tấn). 

Với nguồn lợi như trên, rong biển tại quần đảo Trường Sa trở thành một nguồn tài nguyên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong đời sống. Nghiên cứu nguồn lợi rong biển quần đảo Trường Sa của các nhà khoa học thuộc Viện Tài nguyên và Môi trường Biển không chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu khoa học, góp phần bổ sung thêm tài liệu về nguồn lợi rong biển trong nước mà còn giúp các cơ quan quản lý tại quần đảo Trường Sa có thể định hướng khai thác nguồn tài nguyên quý giá này một cách hợp lý và có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các vùng hải đảo.

Quang Hưng Nguồn: TS. Đàm Đức Tiến, Viện Tài nguyên và Môi trường Biển