Nước mặn không phải "kẻ thù" của kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long
Chuyên gia cho rằng phát triển bền vững ĐBSCL phải thích ứng với biến đổi khí hậu. Cần coi nước mặn, nước lợ không phải là kẻ thù, mà phải thích ứng để phát triển kinh tế.
Nghị quyết 120 cùng với Luật Quy hoạch 2017, Quyết định 593 của Thủ tướng về liên kết vùng là một sự hội tụ hiếm có về chính sách, có thể coi là bộ ba “chính sách vàng” mang lại vận hội mới rất quý cho Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Thực tế, đã có những nơi người dân trúng lớn vụ tôm sú, tôm thẻ, cua dù khô hạn và xâm nhập mặn diễn ra gay gắt.
Vùng “miễn nhiễm” với biến đổi khí hậu
Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là khu vực bị tổn thương nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu. Thế nhưng, Cồn Chim nằm trên sông Cổ Chiên, thuộc xã Hòa Minh, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh được coi là “miễn nhiễm” với biến đổi khí hậu dù có sự luân phiên 6 tháng nước ngọt, 6 tháng nước mặn.
Cồn Chim có diện tích chỉ 62 ha, tổng số 70 hộ thì có 18 hộ tạm cư, còn lại là dân bản địa, định cư ở nơi đây từ những ngày đầu lập ấp.
Ông Nguyễn Văn Quời, Bí thư Chi bộ, kiêm Trưởng ấp Cồn Chim, cho hay thông lệ hàng năm đến rằm tháng 11 âm lịch thì bắt đầu mùa nước mặn kéo dài đến tận tháng 5 năm sau, nửa năm còn lại là mùa nước ngọt. Năm nay, nước mặn về sớm hơn gần nửa tháng.
“Giống lúa ở đây có thể chịu được độ mặn lên đến ba phần nghìn và thời gian sinh trưởng 88-90 ngày như bao nhiêu vùng khác. Bởi vậy nước mặn có “ngang qua” chốn này sớm thì cũng chẳng hề hớn gì cây lúa. Bà con ở đây trồng lúa chưa năm nào bị mất mùa hay thiệt hại vì xâm nhập mặn”, ông Quời nói.
Thiên nhiên chưa bị hủy hoại, người dân Cồn Chim không phải gồng mình chống mặn mỗi mùa khô đến. Ảnh: Thamhiemmekong.com.
Sau khi thu hoạch lúa, trên đồng chỉ còn gốc rạ, nông dân bắt đầu mở cống cho nước mặn từ sông Cồn Chim chảy vào đồng để bắt đầu thả nuôi vụ tôm mới.
Tuy nhiên, nông dân ở Cồn Chim không đánh đổi môi trường để chạy theo năng suất, cả cây lúa lẫn con tôm. Ông Quời đưa ra minh chứng rằng mỗi vụ lúa ông thu hoạch 400 kg/1.000 m2 đất, thấp hơn 3-5 lần nhiều nơi khác. Nhưng ở đây người dân trồng lúa hữu cơ, không phân thuốc hóa học nên năng suất thấp là hết sức bình thường.
Quan trọng hơn, vụ lúa này chỉ là nguồn thu phụ, chủ yếu để nông dân có hạt gạo sạch trong nhà ăn quanh năm, còn cái chính là để nền đất sạch cho vụ luân canh tôm thẻ, tôm sú, cua vào mùa nước mặn. Nếu tăng thêm năng suất phải bón phân hóa học, phun xịt thuốc trừ sâu.
Làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến nền đất, gia tăng dịch bệnh, ảnh hưởng đến môi trường nước, môi trường đất, môi trường sống và còn có nguy cơ thua lỗ vụ tôm sau đó. Mà lúa sạch thì gốc lúa là nơi lý tưởng để con tôm sinh sống và phát triển tốt hơn so với môi trường ao nuôi trống.
“Ngược lại, sau vụ tôm, xác bã còn lại trong ao tôm, nền đất lại là nguồn dinh dưỡng tốt cho cây lúa mọc khỏe mạnh. Trong khi chúng tôi nuôi vụ tôm 8 tháng thu nhập 80-100 triệu đồng, thì tại sao phải đánh đổi môi trường lấy năng suất lúa”, ông Quời phân tích.
Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về hệ sinh thái ĐBSCL, cho rằng Cồn Chim là nơi mà người dân biết thuận theo tự nhiên nên đỡ vất vả. Thiên nhiên ở đây chưa bị hủy hoại, người dân không phải “gồng mình” chống mặn mỗi mùa khô đến.
Vào mùa khô năm 2016, khi cả vùng ĐBSCL khốn đốn vì khô hạn và xâm nhập mặn diễn ra gay gắt thì người dân Cồn Chim vẫn sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản bình thường.
“Không có bất cứ thiệt hại gì, mà ngược lại năm đó người dân Cồn Chim còn trúng lớn vụ tôm sú, tôm thẻ, cua. Bởi ở đây chúng tôi sống thuận thiên theo mùa, mùa nước ngọt thì trồng lúa, mùa nước mặn thì nuôi thủy sản nước mặn, không đi ngược lại với thiên nhiên, không mất sức chống thiên nhiên mà còn được lợi nên khỏe”, Bí thư Chi bộ ấp Cồn Chim chia sẻ.
Chuyên gia cho rằng đây chính là tư duy tiến bộ, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Từ trước đến nay khi nói về tài nguyên nước, nhiều người chỉ nghĩ đến nước ngọt và xem nước mặn, nước lợ là kẻ thù, và khi nghĩ về nước, người ta hay nghĩ tới lượng nước và khía cạnh cơ học của nước.
“Nước mặn, nước lợ vẫn là nguồn tài nguyên tiềm năng để khai thác phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ, nước mặn, thay vì chỉ chăm chăm vào cây lúa và thủy sản nước ngọt. Câu chuyện Cồn Chim là một thực tiễn sinh động nhất về thích ứng với biến đổi khí hậu. Nếu thực hiện tốt Nghị quyết 120 thì sẽ có nhiều những Cồn Chim như thế được phục hồi ở ĐBSCL này”, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện chia sẻ.
Vượt qua trở ngại để chuyển hướng phù hợp
Nghị quyết 120 là định hướng ở tầm chiến lược, cần phải có những quy hoạch, kế hoạch cụ thể để triển khai trên thực tế và việc soạn thảo các quy hoạch, kế hoạch này cần độ chín chắn, tốn thời gian.
Trong 3 năm qua, để triển khai Nghị quyết 120, Chính phủ đã cho soạn thảo Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững ĐSBCL, phê duyệt tại Quyết định 324 của Thủ tướng ngày 2/3/2020. Quy hoạch tích hợp ĐBSCL do tư vấn HaskoningDHV-GIZ đang trong quá trình soạn thảo. Cuối năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức một loạt hội thảo tham vấn vòng cuối cùng ở ĐBSCL để hoàn tất quy hoạch này.
Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Trần Việt Trường cho biết đã thực hiện việc tích hợp Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Tuy nhiên, đây là công việc mới, các ngành chức năng của TP Cần Thơ chưa có kinh nghiệm, gặp phải những khó khăn nhất định. Còn ông Trần Anh Thư, Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang, cho hay những định hướng chiến lược trên được vạch ra một cách khoa học và thực tiễn, phù hợp với bối cảnh mới của vùng ĐBSCL và cả nước.
Nghị quyết 120 được đánh giá là chính sách vàng để phát triển bền vững ĐBSCL. Ảnh: Lê Quân.
“Điều thuận lợi nữa cho tỉnh An Giang, cũng như các tỉnh trong vùng ĐBSCL là bản quy hoạch vùng đang trong quá trình lấy ý kiến và có thể sẽ phê duyệt trong năm nay, làm cơ sở thực tiễn để tỉnh xây dựng Quy hoạch tỉnh, phù hợp, thống nhất với định hướng phát triển của vùng”, ông Thư nhận định.
Theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, Nghị quyết 120 cùng với Luật Quy hoạch 2017, Quyết định 593 của Chính phủ về liên kết vùng là một sự hội tụ hiếm có về chính sách. Có thể nói đây là “bộ ba chính sách vàng” mang lại vận hội mới rất quý cho ĐBSCL. Cả ba đều hàm chứa tư duy hiện đại ở tầm quốc tế rất mới đối với Việt Nam, do đó, việc triển khai bộ ba chính sách này sẽ gặp một số trở ngại.
Trước hết, cách làm quy hoạch tích hợp rất lạ lẫm đối với Việt Nam và sẽ không tránh khỏi lúng túng. Thứ hai là những vướng mắc ở thực địa trong quá trình thay đổi.
Trở ngại thứ ba là quán tính tư duy cũ. Trong trường hợp của ĐBSCL để duy trì lối đi cũ, hàng loạt bài toán cần đặt ra như làm sao để bao đê chống lũ cho ruộng đồng khô ráo để trồng lúa mà lũ không gây ngập nơi khác, làm sao tiếp tục khai thác nước ngầm mà đồng bằng không sụt lún…
“Việc chuyển hướng phát triển của cả ĐBSCL theo Nghi quyết 120 có thể ví như chuyển hướng một con tàu rất lớn, rất nặng nề, đòi hỏi thời gian dài, có thể đến 10 năm, nhưng ít ra con tàu đang không tiếp tục lao theo hướng cũ nữa”, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện đánh giá.