TIN THỦY SẢN

Tái chế vỏ tôm sau khi xiphong thành sản phẩm bảo vệ môi trường

Tiềm năng tái chế phụ phẩm vỏ tôm của nước ta là rất cao Hòa Thy

Nếu như trước đây, đa số bà con sẽ vứt đi phần vỏ tôm sau khi xiphong, thì bây giờ chúng lại được tận dụng, chế biến thành những sản phẩm bảo vệ môi trường. Hãy cùng Tép Bạc điểm qua một số sản phẩm được chế biến từ vỏ tôm nhé!

Tận dụng những vỏ tôm bị vứt lại sau khi xiphong

Hằng năm, đối với những vùng nuôi tôm lớn của nước ta, một lượng lớn bỏ tôm sau xiphong bị bỏ đi rất nhiều. Loại phụ phẩm này của tôm chưa được tận dụng và gây ra một số ảnh hưởng nhỏ đến môi trường sống của con người và động vật.

Trong giai đoạn của một vụ nuôi tôm là 1.5 - 2 tháng, thì tầm từ 1 - 2 ngày bà con bắt đầu xiphong cho ao. Nhằm loại bỏ phần thức ăn thừa, phân và vỏ để vệ sinh môi trường sống cho tôm. Các loại chất thải này sẽ được chất thành từng cụm, tại một số nơi còn thải trực tiếp ra sông, biển.

Nếu có tái chế lại, họa may bà con cũng chỉ biết ủ để làm phân bón và phải mất ít nhất 1.5 tháng nữa. Chưa kể đến việc, trong thời gian phân hủy sẽ phát ra mùi hôi khó chịu, ảnh hưởng đến không khí xung quanh.

Chính vì vậy, giải pháp được đặt ra với mục đích tận dụng những vỏ tôm bị vứt lại sau xi phông. Tái chế thành những sản phẩm nhằm bảo vệ môi trường là điều hoàn toàn đúng đắn.

Một số sản phẩm được làm từ vỏ tôm

Vỏ tôm là một loại phế phẩm trong ngành thủy sản, chiếm khoảng 50-60% trọng lượng của tôm sau khi thu hoạch. Vỏ tôm có chứa một lượng lớn chitin, một loại polymer sinh học có thể phân hủy sinh học. Vì vậy, vỏ tôm có thể được tận dụng để sản xuất các sản phẩm bảo vệ môi trường, thay thế cho các sản phẩm nhựa truyền thống làm từ dầu mỏ.

Vỏ tôm có thể tái chế thành màng bọc thực phẩm. Ảnh: stadi.com.vn

Vỏ tôm sau khi xiphong có thể được sử dụng để sản xuất các sản phẩm như:

- Túi nhựa sinh học: Túi nhựa sinh học làm từ vỏ tôm có các đặc tính tương tự như túi nhựa truyền thống, bao gồm độ bền, khả năng chống thấm và khả năng chống rách. Tuy nhiên, túi nhựa sinh học làm từ vỏ tôm có thể phân hủy sinh học trong thời gian ngắn, thường là trong vòng vài tháng. Điều này có nghĩa là chúng sẽ không gây ô nhiễm môi trường như túi nhựa truyền thống, có thể mất hàng trăm năm để phân hủy.

- Chất kết dính làm từ vỏ tôm: Chất kết dính làm từ vỏ tôm có độ bền cao và có thể sử dụng trong nhiều ứng dụng khác nhau, bao gồm sản xuất giày dép, đồ nội thất và các sản phẩm điện tử. Chất kết dính làm từ vỏ tôm có thể giúp giảm thiểu sử dụng các chất kết dính hóa học truyền thống, có thể gây ô nhiễm môi trường.

- Màng bọc thực phẩm: Màng bọc thực phẩm làm từ vỏ tôm là một loại màng bọc thực phẩm có thể ăn được, được làm từ chitin, một loại polymer sinh học có nguồn gốc từ vỏ tôm. Mang nhiều ưu điểm so với màng bọc thực phẩm truyền thống làm từ nhựa, bao gồm: Có thể phân hủy sinh học trong thời gian ngắn, thường là trong vòng vài tháng. Đồng nghĩa sẽ giảm thiểu tối đa gây ô nhiễm môi trường như màng bọc thực phẩm truyền thống. Đây còn là sản phẩm có khả năng ngăn ngừa vi khuẩn phát triển, giúp giữ cho thực phẩm tươi ngon.

Tiềm năng của phụ phẩm vỏ tôm tại Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia sản xuất và xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Sản lượng tôm của Việt Nam đạt 923.000 tấn trong năm 2022, chiếm 75% tổng sản lượng.

Tận dụng vỏ tôm

Phụ phẩm tôm là một vấn đề đáng lo ngại ở Việt Nam, vì nó có thể gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên. Theo Bộ Công Thương, lượng phụ phẩm tôm ở Việt Nam ước tính khoảng 325.000 tấn/năm. Nếu không được xử lý đúng cách, phụ phẩm tôm có thể gây ra các vấn đề sau:

- Ô nhiễm môi trường: Vỏ tôm có hàm lượng chitin cao, không thể phân hủy sinh học trong môi trường tự nhiên. Khi thải ra môi trường, vỏ tôm có thể tích tụ trong đất, làm giảm độ màu mỡ của đất và cản trở sự phát triển của cây trồng. Vỏ tôm cũng có thể gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và sinh vật thủy sinh.

- Lãng phí tài nguyên: Phụ phẩm tôm chứa nhiều chất dinh dưỡng có giá trị, như chitin, protein và các khoáng chất. Nếu không được tái chế, các chất dinh dưỡng này sẽ bị lãng phí.

Nếu khai thác hết nguồn phụ phẩm từ tôm có thể đóng góp ít nhất 10% trong giá trị ngành tôm. Hiện nay, việc tái chế phụ phẩm tôm vẫn còn nhiều hạn chế, chủ yếu là do thiếu công nghệ và nguồn vốn đầu tư.

Việc mua phụ phẩm đầu, vỏ tôm về chỉ để sản xuất thức ăn gia súc là một giải pháp đơn giản nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Giá bán đầu tôm cho ngành sản xuất thức ăn gia súc chỉ thu được vài ngàn đồng/kg, chưa kể giá lên xuống bấp bênh. Trong khi đó, khi sử dụng vỏ tôm làm nguyên liệu sản xuất túi nhựa phân hủy sinh học, nhựa nhân tạo và nhiều lĩnh vực khác thì giá bán có thể lên tới 400 – 500 USD/kg.

Như vậy, việc tái chế vỏ tôm sau khi xiphong thành sản phẩm bảo vệ môi trường là một hướng đi đầy tiềm năng, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo vệ hệ sinh thái.

Hòa Thy