Thừa Thiên Huế: Quản lý hoạt động khai thác thủy sản đầm phá
Để tăng cường công tác quản lý các hoạt động khai thác trên các vùng đầm phá của tỉnh, thực hiện nghề khai thác thủy sản có trách nhiệm, bảo đảm phát triển bền vững, đồng thời quản lý khai thác thủy sản gắn liền với bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản, nâng cao thu nhập người dân, cộng đồng ngư dân đầm phá.vừa qua, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quy chế quản lý hoạt động khai thác thủy sản đầm phá trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế kèm theo Quyết định số 62/2016/QĐ-UBND.
Theo đó, để bảo vệ ngư trường và nguồn lợi thủy sản, Quy chế nghiêm cấm các hành vi làm hủy hoại nguồn lợi thủy sản, gây ô nhiễm môi trường thủy sinh đầm phá như: Khai thác, hủy hoại trái phép các bãi thực vật ngầm, rừng ngập mặn, các rạn đá và hệ sinh cảnh khác; phá hủy, cản trở trái phép đường di chuyển tự nhiên của các loài thủy sản; Khai thác các loài thủy sản thuộc các danh mục cấm kể cả cấm có thời hạn, trừ trường hợp vì mục đích nghiên cứu khoa học được Chính phủ cho phép; khai thác thủy sản nhỏ hơn kích cỡ quy định, trừ trường hợp được phép khai thác để nuôi trồng; Lấn, chiếm, xâm hại các khu bảo tồn, khu bảo vệ thủy sản đã được quy hoạch và công bố; vi phạm các quy định trong quy chế quản lý khu bảo tồn, khu bảo vệ thủy sản; Vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản; Khai thác thủy sản ở khu vực cấm, khu vực đang trong thời gian cấm; Sử dụng các ngư cụ, các loại nghề bị cấm để khai thác thủy sản: hóa chất độc hại, chất nổ. xung điện: kích điện, rà điện, kết hợp điện; te quyệu, giã cào, lưới quét, lưới kìm (vây), lưới xiếc; nạo (cào) hến, cào lươn, cào hàu, cào rong bằng thuyền máy; Sử dụng các ngư cụ làm cản trở hoặc gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác đang khai thác; thả neo, đậu tàu tại các nơi có ngư cụ của tổ chức, cá nhân khác đang khai thác hoặc nơi có tàu cá khác ra dấu hiệu đang khai thác, trừ trường hợp bất khả kháng.
Bên cạnh đó, Quy chế cũng nghiêm cấm hành vi vứt bỏ ngư cụ xuống vùng nước tự nhiên đầm phá; Vi phạm các quy định về quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản không theo quy hoạch làm cản trở dòng chảy, cản trở khai thác thủy sản, ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các ngành, nghề khác; Thả thủy sản bị nhiễm bệnh vào các vùng nước đầm phá; Xả thải nước, chất thải từ cơ sở sản xuất giống thủy sản, cơ sở nuôi trồng thủy sản, cơ sở bảo quản, chế biến thủy sản mà chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn quy định vào đầm phá; Xây dựng mới, phá bỏ, thay đổi các công trình liên quan đến thủy vực đầm phá khi chưa được cấp phép của cấp có thẩm quyền làm thiệt hại lớn đến nguồn lợi thủy sản; Chế biến, vận chuyển hoặc đưa ra thị trường các loài thủy sản thuộc danh mục cấm khai thác; thủy sản có dư lượng các chất độc hại vượt quá giới hạn cho phép; thủy sản có độc tố tự nhiên gây nguy hiểm đến tính mạng con người, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Cấm sử dụng tùy tiện các nghề khai thác mới trên đầm phá, việc du nhập nghề khai thác mới phải được phép của Chi cục Thủy sản. Cấm sử dụng thủy vực đầm phá để chắn sáo nuôi chuyên canh tôm các loại. Việc sử dụng chắn sáo, lồng nuôi thủy sản ăn thực vật và phù du và các hình thức nuôi khác phải theo đúng quy hoạch, được cho phép.
Ngoài ra, Quy chế cũng quy định các công trình đê đập thủy lợi cần được nghiên cứu xây dựng “bậc cá”, “thang cá” phù hợp, để các giống loài thủy sinh có thể vượt qua, tránh gây tuyệt chủng các đối tượng di cư sinh sản. Phạm vi vùng phụ cận của các đê thủy lợi ven đầm phá là 20m, phạm vi không được xâm phạm là 5m sát chân đập, phạm vi còn lại được sử dụng cho các mục đích không gây mất an toàn đập. Các hàng đáy, nò sáo phải để lối di cư thủy sản trên 1/3 bề rộng của cửa lạch.
Kích thước mắt lưới tối thiểu được phép ở phần đụt của nghề đáy, phần hom (nò) của nghề nò sáo và phần đụt nghề lừ xếp là: 2a =18 mm. Nghề đáy khai thác tôm cá giống cho nuôi trồng thủy sản, có kích thước mắt lưới nhỏ hơn 2a =18 mm phải được cho phép. Khoảng cách tối thiểu giữa hai trộ nghề nò sáo là 150m (khoảng cách hai trộ nghề được tính là khoảng cách nò hàng trên đến cánh hàng dưới). Khoảng cách tối thiểu giữa 2 cánh sáo liền kề là 10m. Khoảng cách cánh sáo cách bờ tối thiểu là 50m.
Về phát triển nguồn lợi thủy sản, khuyến khích việc thả giống thủy sản bổ sung, tái tạo, làm phong phú nguồn lợi thủy sản đầm phá, khuyến khích tổ chức ngư dân địa phương tự xây dựng các chà rạo, rạn nhân tạo trong vùng nước được ủy quyền để tăng nơi trú ẩn và sinh sản của thủy sản. Sở Nông nghiệp và PTNT và UBND các huyện, thị xã vùng đầm phá có kế hoạch tái tạo nguồn lợi hàng năm, để huy động sự tham gia của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, Chi hội Nghề cá, các cơ sở sản xuất giống.